THẬP GIÁ TRONG GIA ĐÌNH

 
THẬP GIÁ TRONG GIA ĐÌNH
*


Trong kiểu nói của Kitô giáo, thập giá tượng trưng cho những khốn khổ mà con người gặp phải trong đời sống, xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: cùng cực về của cải vật chất, sự đàn áp bất công, các bệnh tật thể lý và tinh thần, những đau khổ, và sau cùng là cái chết. Tất cả những sự khốn khổ nầy là dấu chỉ cho thấy tình trạng yếu đuối của con người, sau tội đầu tiên của A-đam[1]. Gia đình của bạn, ít nhiều, cũng sẽ trải qua những tình huống của thập giá:

1. Bệnh tật:
        
Con người trong Cựu ước sống trong bệnh tật trước tôn nhan Thiên Chúa. Họ than thở với Thiên Chúa về bệnh tật của mình và xin Người, là Chúa sự sống và sự chết, chữa lành. Bệnh tật trở thành con đường hối cải, và ơn tha thứ của Thiên Chúa là khởi đầu việc chữa lành […] Có tiên tri đã thoáng nhận ra rằng đau khổ có thể có giá trị cứu chuộc đối với tội lỗi của những người khác (x.Is 53,11). Chúa Giêsu, vì lòng thương cảm đối với những người đau khổ, đã chữa lành nhiều người khỏi nhiều chứng bệnh khác nhau, để cho thấy Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Người và sứ mệnh cứu độ ấy được trao cho Đức Giêsu Kitô. Người đến để chữa lành con người toàn diện, cả xác lẫn hồn[2].

Bệnh tật và đau khổ luôn luôn là những vấn đề nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến gia đình. Trong những cơn bệnh của chính mình hoặc của những thành viên trong gia đình đều làm cho bạn lo lắng, buồn phiền, khép kín, thất vọng và phàn nàn kêu trách Chúa. Nhưng nó cũng có thể làm cho bạn chín chắn hơn, giúp bạn phân định điều gì không phải là chính yếu trong đời sống, để quay về với điều chính yếu. Bệnh tật rất thường gợi lên sự hiểu biết về Thiên Chúa, gợi lên sự trở lại với Người[3].

        
Một đứa con bệnh tật đau khổ, là một biến cố gây xáo trộn đối với gia đình và làm cho gia đình rúng động cách sâu xa. Đau khổ biết bao cho bạn là cha mẹ khi biết đứa con mình sắp sinh ra bị dị tật, khiếm khuyết một phần cơ thể, hoặc đứa con yêu quý của mình nay đau mai ốm, không có tương lai. Những hoàn cảnh ấy, bạn hãy khám phá ý nghĩa sâu xa của đau khổ, và cầu xin Chúa cho mình được can đảm chấp nhận và “phát huy lòng quý chuộng đối với phẩm giá ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự kính trọng thật lớn lao đối với những quyền lợi của nó, những quyền lợi mà người ta phải phục vụ một cách quảng đại. Đó là điều phải dành cho tất cả mọi đứa con, mà quan trọng nhất là đứa con nhỏ tuổi hơn, đang cần đủ mọi thứ, hoặc đối với đứa con bị đau yếu hay tàn tật”[4].

Bệnh tật cũng sẽ đến với chồng hay vợ, làm ngưng trệ hay mất đi sự cung ứng về tài chính, làm xáo trộn trật tự trong gia đình và có thể đưa gia đình đến cảnh mâu thuẫn, khốn cùng hoặc ly tán. Đây là thử thách lớn của đời sống hôn nhân gia đình. Lúc ấy, bạn hãy nhớ lại lời cam kết mà vợ chồng đã long trọng phát biểu trước cộng đoàn là “hứa giữ lòng chung thủy…khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu”[5].Khi cam kết như thế, bạn ý thức rằng mình không đánh giá người bạn đời theo tiêu chuẩn sản xuất, lợi nhuận, để thực hiện một hợp đồng; nhưng là thực hiện một giao ước yêu thương đặt trên tiêu chuẩn ngôi vị, tình yêu và đức tin, để giúp nhau hoàn thành ơn gọi của mình, bất chấp mọi cảnh ngộ. Đây chính là lúc vợ chồng cần đến nhau nhất; đây chính là lúc tình yêu chân thật và lòng chung thủy được biểu lộ sâu xa nhất; đây chính là lúc lòng đạo đức đích thực được biểu lộ trong cuộc sống gia đình.
Bạn hãy phó thác cho Chúa những đau khổ của gia đình. Người sẽ cho cơ hội được chữa lành nếu là điều đẹp lòng Chúa hoặc sẽ tăng thêm sự can đảm để bạn cùng với bệnh nhân vượt qua được những thử thách của tình yêu vợ chồng và đời sống đức tin.

2. Vô sinh

Nỗi đau khổ của những đôi phối ngẫu kết hôn mà không thể sinh con thật to lớn. “Ông Áp-ra-ham thưa: Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái”(St 15,2). Bà Ra-khen nói với chồng mình là Gia-cóp: cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!” (St 30,1)[6].

Nếu gia đình bạn gặp phải trường hợp nầy, thì đừng bao giờ coi đó là một điều bất hạnh, hay một hình phạt của Chúa, để rồi thất vọng hay phàn nàn kêu trách, làm tăng thêm nỗi khổ cho gia đình. Sự vô sinh là do những nguyên nhân thể lý nơi người vợ hoặc người chồng, gây nên bởi bệnh tật, tai nạn hoặc di truyền. Đó là một trục trặc, một sự cố tự nhiên. Tin Mừng cho thấy sự vô sinh thể lý không phải là một điều xấu tuyệt đối. Đôi phối ngẫu, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, hãy kết hợp với thập giá của Chúa, là nguồn mạch mọi sự sinh sôi nảy nở thiêng liêng. Bạn có thể nói lên lòng quảng đại của mình, bằng cách nhận làm nghĩa tử những đứa trẻ bị bỏ rơi và bằng cách tham gia việc phục vụ tha nhân[7]. Hãy tránh tất cả những hình thức thụ tinh nhân tạo, mang thai và đẻ mướn trái với giáo huấn của Giáo Hội. Bạn hãy tư vấn các linh mục có khả năng và trách nhiệm về vấn đề nầy[8].
Bạn hãy luôn suy gẫm lời Chúa Giêsu trả lời cho những người thuộc phái Sa-đu-cê-ô: “Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22,23-33). Chúng ta sẽ sống lại và sống cuộc sống vĩnh hằng, không còn chết nữa. Vì thế, không nhất thiết phải có con cái để lưu truyền nòi giống.

3. Con cái hư hỏng

Con cái là niềm vui, là hạnh phúc của cha mẹ, nếu là đứa con tốt lành, thành đạt; nhưng cũng có thể là nỗi đau và nhục nhã cho cha mẹ, nếu là đứa con hư hỏng. Cha mẹ nào cũng muốn mình có được những đứa con tốt, hiếu thảo. Điều nầy có được không phải hên xui, cũng không phải hoàn toàn do Trời, như người ta thường nói để bào chữa cho sự thiếu trách nhiệm của mình khi có đứa con hư: cha mẹ sinh con, Trời sinh tính.

Sự hình thành về nhân cách, về đức tin tùy thuộc, hầu như quyết định, do sự chăm sóc dạy dỗ của cha mẹ ngay từ khi còn thơ bé. Con cái khi còn thơ bé giống như một tờ giấy trắng có thể ghi bất cứ điều gì tốt xấu, và đã ghi rồi thì khó lòng xóa bỏ hết dấu vết. Vì thế cha mẹ hãy giáo dục con cái cả đời sống nhân bản và đức tin bằng gương sáng, bằng thông truyền sự tốt lành của mình, bằng bầu khí an bình, yêu thương, tín nhiệm và đạo đức trong gia đình. Trong nhiệm vụ nầy, người mẹ đóng vai trò quan trọng. Vì thế, người mẹ đừng lơ là trong vấn đề nầy. Không quan tâm giáo dục, uốn nắn ngay từ khi còn bé, con cái sẽ dần dà lây nhiễm những thói xấu của xã hội, của bạn bè, của phim ảnh và khi đã hư hỏng thì khó sửa được. Gặp trường hợp có một đứa con hư hỏng, bạn hãy tìm nguyên nhân và khắc phục loại bỏ những nguyên nhân ấy; nhẹ nhàng và đầy yêu thương nhắc bảo con cái; tin tưởng cầu nguyện xin Chúa đưa nó trở về. Hãy noi gương bà thánh Mô-ni-ca: suốt 20 năm đã theo dõi, nhắc bảo và cầu nguyện cho đứa con hư của mình là Au-gút-ti-nô. Bà đã đạt kết quả: đứa con trở về làm lại cuộc đời và trở nên vị thánh lớn trong Giáo Hội.

4.Thất bại trong công việc

Thất bại trong công việc, như: thất nghiệp, trù định sai công việc, hoàn cảnh thiên nhiên không thuận lợi, sự lừa đảo của người khác…cũng là những đau khổ lớn cho gia đình.

-Tài chánh luôn là yếu tố quan trọng cho sinh hoạt bình thường của gia đình. Ngày nào đó vợ chồng thất nghiệp, không có công ăn việc làm, hoặc thua lỗ, thất bại trong kinh doanh, trong việc làm ăn, gia đình sẽ bị đe dọa. Thất nghiệp làm tổn thương phẩm giá và đe dọa sự quân bình của đời sống của cá nhân và gia đình[9]. Thua lỗ trong kinh doanh, trong làm ăn do hoàn cảnh sẽ tạo nên khủng hoảng trong gia đình và có khi vì thế mà gia đình sụp đổ, ly tán. Đây là những thập giá mà bạn phải gánh vác.
-Nhưng trong mọi lúc, bạn phải nhớ rằng đau khổ trong cuộc đời là lẽ bình thường, cũng như:  biển nào mà không có sóng, ruộng nào mà không có cỏ, ngày nào mà chẳng có đêm.Vì thế, trong những hoàn cảnh đau thương, hãy can đảm đứng lên, bạn có thể gầy dựng lại mọi sự tốt đẹp: sau cơn mưa trời lại sáng.
-Tiền bạc là cần thiết cho đời sống xã hội, nhưng nó sẽ trở nên ông chủ xấu nếu bạn để nó điều khiển và quyết định những công việc mình làm. Đồng tiền chứa đựng những điều thật tốt đẹp cũng như những điều thật ghê tởm[10]. Vì thế, những khi thất bại về tiền bạc, bạn hãy coi như cơ hội tốt để tập chấp nhận hoàn cảnh cách tích cực và giũ bớt lòng tham lam bụi đời. Đời sống tinh thần và thiêng liêng của bạn sẽ lớn lên, sẽ trưởng thành qua những cơ hội quý báu nầy.

5. Khủng hoảng tình cảm

Thời gian đầu của đời hôn nhân thường tốt đẹp, nhưng rồi càng ngày gia đình càng đối diện với những khó khăn thực tế, với áp lực công việc…khiến mệt mỏi, tính xấu cũng dần dà xuất hiện, sinh ra những bất đồng, mâu thuẫn; sự đối kháng nhau trong sở thích, nhu cầu, phương cách giáo dục con cái; sự không tương hợp về nhu cầu sinh lý… ban đầu thì nhỏ rồi sau thì nặng nề, đưa đến việc lạnh nhạt tình cảm với nhau, xa nhau trong không gian gia đình, rồi có thể đưa đến việc tìm an ủi tình cảm của người thứ ba. Tình trạng nầy kéo dài có thể đưa đến ngoại tình, ghen tương và đổ vỡ.

Các nguyên nhân đại loại như thế nếu không loại bỏ ngay từ đầu có thể gây bùng nổ. Vì thế, điều quan trọng là khi đứng trước những tình huống ấy, vợ chồng phải bình tĩnh, biết trao đổi với nhau bằng những lời lẽ xây dựng có tình có lý, có tôn trọng và hướng tới hòa giải, tìm giải pháp để bảo vệ tình yêu. Hãy nhớ tới con cái và vì lợi ích, tương lai của chúng, mà mỗi người quên đi những mâu thuẫn, bất hòa; hãy nhớ tới lời thề ước ban đầu khi yêu nhau để làm lại giao ước yêu thương; hãy  nghiêm túc chất vấn bản thân mình sau mỗi lần tranh luận, xích mích cãi cọ; nhất là hãy phó dâng tất cả cho Chúa với đức tin và lòng thành khẩn xây dựng gia đình.

Thánh Phaolô đã tóm kết kinh nghiệm sống chung hòa hợp, như sau: “Như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại,chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau, nếu người nầy có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em,anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện” (Cl 3,12-17)[11].
 
Lm Anphongsô Nguyễn công Vinh
Nguồn: http://gpphanthiet.com
 

[1] x.Sách GLCG số 2448.
[2] Id. số 1502,1503.
[3] Id. số 1500.
[4] Gioan-Phaolô II, FC 26.
[5] x. Nghi thức Hôn Phối.
[6] x.GLCG số 2374.
[7] x.id. số 2379.
[8] x.Nuyễn Công Vinh, Tìm Hiểu Giáo Luật về Hôn Nhân và Gia Đình, Tập 2, NXB Tôn Giáo, 2009, tr.74-79.- Giải Đáp Thắc Mắc Tình Yêu và Gia Đình, NXB Tôn Giáo, 2006, tr. 107.
[9]x.GLCG số 2436.
[10] x.Nguyễn công Vinh, Trẻ mãi không già, NXB Tôn Giáo, 2012, tr.89
[11] x.Nguyễn công Vinh, Giải Đáp ThắcMắc Tình yêu và Gia đình, NXB Tôn Giáo 2006, tr.78-81.

ĐẠO ĐỨC XUỐNG DỐC



ĐẠO ĐỨC XUỐNG DỐC


1.            Tôi đang sống một tình trạng xuống dốc thê thảm. Sức khoẻ thể xác xuống dốc toàn diện. Chỗ nào cũng đau. Sức khoẻ tinh thần cũng giảm sút. Tôi cảm thấy mình yếu đuối mệt mỏi. Tôi xin chấp nhận. Nhưng điều tôi sợ nhất là xuống dốc về đạo đức. Tôi tha thiết muốn đạo đức nơi tôi không xuống dốc.
Tôi cầu xin Chúa giúp tôi nên dựa vào những dấu chỉ nào để biết được điều đó, ít là phần nào.
2.            Chúa thương soi sáng cho tôi bằng cách đưa lòng trí tôi nhớ lại sự việc đã xảy ra ở hồ Genêxarét xưa.
Giảng xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon: ‘Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá’. Ông Simon đáp: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới’. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: ‘Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi’.
Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon cũng kinh ngạc như vậy.
Bấy giờ, Đức Giêsu bảo ông Simon đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Chúa Giêsu” (Lc 5,4-11).
3.            Suy gẫm và cầu nguyện với đoạn Phúc Âm trên đây, tôi được Chúa cho thấy mấy điều sau đây nên được coi là dấu chỉ của lòng đạo đức nơi người môn đệ Chúa.
Dấu chỉ thứ nhất là thánh Phêrô biết kinh ngạc nhận ra việc lạ lùng Chúa làm cho mình.
Dấu chỉ thứ hai là thánh Phêrô biết nhận ra mình tội lỗi, bất xứng, khó nghèo.
Dấu chỉ thứ ba là thánh Phêrô bỏ mọi sự đi theo Chúa, vì mến Chúa và vì thương muốn cứu con người.
4.            Trong ba dấu chỉ trên đây, dấu chỉ khiêm tốn khó nghèo nên được nhấn mạnh. Như Đức Mẹ xưa đã nhận biết mình chỉ là “nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48). Đó là dấu chỉ đáng tin về đạo đức. Không những thánh Phêrô nhận biết mình hèn mọn, bất xứng và nói ra sự nhận biết đó bằng miệng, mà còn diễn tả ra bằng thái độ, đó là Ngài sấp mặt xuống dưới chân Chúa Giêsu trước mặt các anh em.
Chính lúc Ngài nói: “Xin Chúa tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” thì lại là lúc Chúa ngự một cách thiêng liêng vào tâm hồn Ngài. Nhờ vậy, Ngài đã dư sức bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, vì mến Chúa và cứu con người một cách chân thành và tuyệt đối.
5.            Với ba dấu chỉ trên đây, tôi nhìn vào các môn đệ Chúa xung quanh đây, đặc biệt là nhìn vào chính bản thân tôi, để biết tình hình đạo đức có thực sự là đáng khả quan không.
Thú thực là giữa cuộc sống ồn ào, tôi không nhìn thấy rõ. Nhưng khi Chúa đưa tôi vào một thứ sa mạc nội tâm, chỉ còn Chúa và tôi, tôi được biết phần nào. Kết quả là tôi thấy phải sám hối rất nhiều. Tôi rất cần được cứu. Đấng cứu tôi là Chúa Giêsu.
6.            Nhưng để Chúa Giêsu cứu tôi, thì tôi cần gặp Người. Mà muốn gặp được Người, thì tôi cần “tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,28). Bởi vì Người đến lúc nào, cách nào, dưới hình thức nào, thì tuỳ ý Người, chứ không theo chương trình và ý muốn của tôi.
Trong tỉnh thức và cầu nguyện, đều phải có sự khao khát gặp Chúa và vâng ý Chúa, với sự khó nghèo nội tâm.
Khó nghèo nội tâm là khiêm nhường đừng phô trương thành tích đạo đức.
7.            Dụ ngôn người Pharisêu kể với Chúa những con số thành tích và tự hào mình đạo đức hơn người thu thuế (x. Lc 18,11-12) dạy tôi phải rất khiêm tốn và khó nghèo trong các thứ lễ tạ ơn hiện nay, cũng như trong các thứ biểu dương bác ái và công bình của Hội Thánh chúng ta trong xã hội Việt Nam lúc này.
8.            Những lời Chúa Giêsu nói về người môn đệ chân chính (Mt 7,21-27) cũng dạy tôi phải tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng. Nếu không, tôi cũng sẽ lầm tưởng tôi là môn đệ chân chính của Chúa, được Chúa khen thưởng, vì đã làm sáng danh Chúa bởi những việc lẫy lừng nhân danh Chúa. Nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm phép lạ, đó là những việc coi như chắc chắn làm chứng cho Chúa, ai ngờ Chúa lại gọi những kẻ làm thế là phường gian ác (x. Mt 7,23). Phương chi là những công trình vật chất. Chỉ vì họ không làm theo ý Chúa.
9.            Làm theo ý Chúa là thế nào? Thưa, tiên vàn là phải sống kết hợp với Chúa. Khi tôi vâng ý Chúa, mà luôn sống kết hợp với Chúa một cách chặt chẽ như cành nho với cây nho (x. Ga 15,1-5) thì dần dần trái tim tôi được đổi mới. Tôi được Chúa cho cảm thấy Thiên Chúa là tình yêu. Chứ Thiên Chúa không là lề luật.


Từ cảm nghiệm đó, tôi nghĩ tới việc xây dựng đạo đức cho tôi và cho cộng đoàn của tôi. Theo tôi, xây dựng đạo đức không phải là bằng cách ra nhiều lề luật, mà là hãy đạo tạo trái tim cho biết yêu thương như Chúa yêu thương.
10.         Tôi nhớ tới lời Chúa Giêsu trối lại trong bữa Tiệc Ly: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương các con” (Ga 13,34).
11.         Yêu thương cũng là một lề luật. Luật của nó là hãy mang lửa trong mình, đó là những thao thức biết lo cho người khác khỏi khổ, nhưng được sự lành, nhất là khỏi phải sa hoả ngục, nhưng được lên thiên đàng. Cũng hãy mang thánh giá trong mình, đó là chịu hy sinh để đền tội thay cho người khác và để góp phần vào sự thương khó Chúa Giêsu mà cứu họ, để họ được rỗi.
12.         Tôi cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh điều răn mới đó. Nhờ vậy, đã có vô số tín hữu đã biết cho đi và biết lãnh nhận tình yêu phục vụ hy sinh, làm cho cộng đoàn trở thành cộng đoàn yêu thương, làm chứng cho Chúa là tình yêu.
Chính tôi cũng đã và đang được hưởng phúc lành của lòng đạo đức đó. Chính tôi cũng đã và đang chia sẻ lòng đạo đức đó, mà tôi đã được lãnh nhận một cách dồi dào.
13.         Tôi xin Chúa cho lòng đạo đức này mãi mãi tăng lên cả bề rộng lẫn bề sâu. Chỉ Chúa mới giúp tôi được điều đó. Tới đây, tôi thấy: Đạo đức của tôi lên hay xuống dốc, thì chỉ một mình Chúa biết rõ mà thôi. Phần tôi, tôi luôn nhận biết mình là kẻ tội lỗi yếu hèn, nhưng lại được Chúa rất yêu thương. Nên tôi cố gắng thực hiện yêu thương một cách tốt nhất với đồng bào của tôi, Quê Hương của tôi và Hội Thánh của tôi.
Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa.
+ ĐGM Bùi Tuần
Nguồn: www.http://gpphanthiet.com

BÀI DIỄN VĂN CỦA ĐTC PHANXICÔ NÓI VỀ CÁC THÁCH ĐỐ GIA ĐÌNH



Bài Diễn Văn của Đức Thánh Cha Phanxicô
cho các Giám Mục Nam Phi nói về
các thách đố gia đình
 
Bài Diễn Văn Của Đức Thánh Cha Phanxicô Cho Các Giám Mục Nam Phi  (Châu Phi) Dịp Viếng Thăm Mộ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô Tông Đồ  - "Ad Limina"
Thứ sáu, ngày 25.04.2014
 
Anh Em Giám Mục thân mến,
Tôi xin chào đón Anh Em thật nồng nhiệt khi Anh Em đang hành hương Viếng Mộ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô theo giáo luật (Visita ad limina ad sedem Sanctorum Apostolorum Petri et Pauli), trong đó Anh Em đến để cầu nguyện tại Mộ Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, và để suy tư với Tôi về niềm vui và những thách đố của Giáo Hội tại Botswana, South Africa và Swaziland. Sự hiện diện của Anh Em bày tỏ tình hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, và là dịp thuận tiện để làm sống động lại trong đức tin và trong tác vụ của Anh Em khi chăm sóc Đoàn Chiên của Dân Thiên Chúa. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Napier vì các lời chào thăm nồng nhiệt, nói lên với Tôi, nhân danh tất cả những người Công giáo trong các giáo phận của Anh Em - các Linh Mục, Tu Sĩ và Tín Hữu Giáo Dân. Tôi bảo đảm là qua Anh Em, Tôi bày tỏ tình mến thương của Tôi và tình liên đới của Tôi trong lời cầu nguyện.
Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay cho phép chúng ta cảm tạ Thiên Chúa Cha vì sự tăng trưởng của Giáo hội trong các Quốc Gia của Anh Em, tạ ơn Chúa vì những lao nhọc của các vị truyền giáo từ nhiều nước, là những vị, cùng với những người bản xứ, nam và nữ, của Nước South Africa, Botswana và Swaziland, đã gieo hạt giống đức tin thật sâu xa nơi  Dân Tộc của Anh Em. Qua bao nhiêu thế hệ họ đã ra đi để gặp gỡ người dân bất cứ ở đâu họ gặp được, tại các làng mạc, thành thị và khu phố, và nhất là trong các thành phố biển đang luôn luôn mở mang thành phố phường. Họ đã xây dựng các nhà thờ và trường học, nhà thương, để phục vụ các Nước của Anh Em trong suốt gần 2 thế kỷ nay; di sản này còn chiếu sáng ngay cả ngày nay trong con tim của mỗi tín hữu và trong những công việc tiếp tục của công tác tông đồ. Phúc Âm dạy rằng hạt giống Lời Chúa, một khi được gieo xuống đất, tự mình mọc lên ngay cả khi người chủ ruộng đang ngủ, như thế đúng như điều nói được nói: "muốn vượt qua sự tính toán của chúng ta và các thế suy tư của chúng ta" (Evangelii gaudium, 22).
Cho dù có nhiều thách đố, các xứ sở của Anh Em được chúc phúc bởi những giáo xứ thịnh vượng, chiến đấu thường xuyên chống lại những cản trở lớn lao ngược lại: những khoảng cách thật xa nhau giữa các cộng đoàn, và sự thiếu thốn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các giới hạn trong việc lãnh nhận các bí tích. Tôi biết Anh Em đang huấn luyện các phó tế thường xuyên trong một số giáo phận, để giúp hàng giáo sĩ tại những nơi ít linh mục hơn. Có một nỗ lực chung để canh tân và đào sâu việc huấn luyện các giáo lý viên giáo dân, là những người trợ giúp các bà mẹ và các người cha lo cho các thế hệ sẽ tới trong đức tin. Các linh mục và Nam Nữ Tu sĩ sống một trí một lòng trong việc phục vụ các người con trai con gái của Thiên Chúa, đang bị thương tích một cách trầm trọng hơn: các quả phụ, các bà mẹ một mình, những người ly dị, những người con đang gặp nguy cơ và nhất là hàng triệu người trẻ mồ côi mắc bệnh AIDS, mà nhiều người lại là chủ gia đình tại vùng nông thôn. Quả thực sự phong phú và niềm vui của Phúc Âm đang được sống và được chia sẻ bởi các người Công giáo với những người chung quanh họ. Một thiểu số Công giáo trong những xứ này pha trộn với các tôn giáo khác, các tín hữu phải tín thác thêm hơn nữa vào sức trợ giúp riêng của mình, với sự trợ giúp giảm sút đi từ các quốc gia đã là những nơi gửi các thừa sai tới. Nhiều người trong họ làm việc với lòng quảng đại lớn lao trong nhiều dự án bác ái, tỏ ra bộ mặt yêu thương của Đức Kitô cho những người cần tới Ngài hơn hết. Mỗi người là dấu chỉ của niềm hy vọng cho toàn thể Giáo hội! Tôi cầu nguyện để họ tiếp tục kiên trì xây dựng Nước của Đức Kitô bằng đời sống của họ, làm chứng cho sự thật, và với hoạt động chân tay của họ để làm nhẹ bớt đi các đau khổ của biết bao nhiêu người.
Anh Em đã nói cho Tôi về những thách đố nghiêm trọng trong mục vụ, đang đối đầu với các cộng đoàn của Anh Em. Các gia đình Công giáo có ít con hơn, và điều này ảnh hưởng tới con số ơn gọi linh mục và đời sống tu trì. Một số người Công giáo ra đi khỏi Giáo hội, nhập vào các nhóm khác xem ra nhiều hứa hẹn hơn cho đời sống họ có gì tốt hơn. Việc phá thai là mối lo lắng của nhiều phụ nữ là những người hiện đang mang theo với họ những vết thương thể lý và tinh thần, sau khi ngã xuống vì những áp lực của một nền văn hóa thế tục làm mất đi các giá trị về ơn huệ tính dục của Thiên Chúa ban cho, và quyền được sống của các trẻ em chưa được sinh ra. Thêm vào đó con số các cặp hôn nhân phân ly và ly dị thật cao, ngay cả trong nhiều gia đình Kitô giáo, và các trẻ em thường không lớn lên trong một môi trường ổn định nơi nhà của họ. Chúng ta cũng quan sát thấy, với một sự chú ý lớn, và chỉ có thể than phiền, đang tăng thêm những hành vi bạo động chống lại phụ nữ và trẻ em. Tất cả các thực tế này đe đọa sự thánh thiện của hôn nhân, sự vững vàng của đời sống trong gia đình và do đó cũng đe dọa đời sống của xã hội trong toàn thể của nó. Trong biển cả các khó khăn này, chúng ta, các Giám Mục và Linh Mục phải có một chứng tá bền bỉ về giáo huấn luân lý của Phúc Âm. Tôi tín thác nơi Anh Em là những người sẽ không giảm bớt thái độ cương quyết để dạy dỗ sự thật "trong thời thuận tiện cũng như trong thời không thuận tiện" (2Tm 4:2), được nâng đỡ bởi việc cầu nguyện và việc phân định, và luôn luôn với sự thương cảm lớn lao.
Tôi ghi nhận, với sự thán phục, sự kiện là Anh Em, các Giám Mục vùng Botswana, South Africa và Swaziland, hiệp nhất với Dân của Anh Em ở nơi họ sống và làm việc và học hành nghiên cứu, liên đới với con số thật đông những người thất nghiệp trong các Quốc Gia của Anh Em. Phần lớn Dân chúng của Anh Em có thể nên đồng nhất với Chúa Giêsu ngay lập tức là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi ra ngoài, là những người không có chỗ để gối đầu. Trong khi nói tới các nhu cầu mục vụ, Tôi xin Anh Em cống hiến, thêm vào sự trợ giúp vật chất mà Anh Em lo lắng, sự trợ giúp lớn lao hơn về đàng thiêng liêng và sự trợ giúp luân lý, nhớ lại rằng sự thiếu vắng Đức Kitô là sự nghèo khổ lớn lao nhất trong các cảnh nghèo khác. Ở đây chúng ta cũng cần tìm ra những cách thế mới và sáng tạo giúp đỡ con người gặp gỡ Đức Kitô qua sự hiểu biết sâu xa hơn về đức tin.
Một thách đố khác mang ý nghĩa, mà Tôi đã nhắc tới, là việc giảm bớt con số linh mục - những cộng sự viên hàng đầu của Anh em trong công việc rao giảng Tin Mừng - cũng như việc giảm bớt thật ý nghĩa con số các chủng sinh. Điều cần phải có là một sự thúc đẩy mới: một sự cổ võ tươi mát và chính thức về ơn gọi trong bất cứ vùng đất nào, một sự chọn lựa các ứng viên vào học trong chủng viện, một sự khích lệ với tình cha con nhưng người đang trong giai đoạn huấn luyện, và việc hoàn tất trong những năm sau khi chịu chức linh mục cần được lưu ý.
Cùng với các linh mục, tu sĩ và các giáo lý viên, giáo dân vẫn giữ và còn giữ vai trò quan trọng trong việc làm cho cộng đoàn của Anh Em lớn lên. Đó là điều chính yếu: họ cần nhận được từ Anh Em sự khích lệ và sự nâng đỡ, nhất là qua việc phát triển các chương trình huấn luyện thường xuyên, dựa trên nền tảng chắc chắn trong Lời được linh hứng của Thiên Chúa, và đưa các trẻ con và người lớn vào đời sống cầu nguyện và việc lãnh nhận các Bí Tích cách ích lợi. Bí tích Hòa Giải, đặc biệt, phải được tái khám phá ra như là chiều kích nền tảng của đời sống ơn thánh. Sự thánh thiện và sự bất khả phân ly của hôn phối, thường bị tan vỡ do sức ép của thế giới tục hóa, phải được đào sâu bởi giáo huấn rõ ràng và được nâng đỡ bởi chứng tá của các cặp vợ chồng dấn thân. Hôn nhân Kitô là một giao ước cả đời của tình yêu giữa một người nam và một người nữ; hôn nhân kéo theo các hy sinh đích thực để tránh khỏi các ý niệm lừa đảo về sự tự do trong vấn đề sinh lý và để cổ võ sự trung thành hôn nhân. Các chương trình của Anh em để việc chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Hôn Phối, được làm cho phong phú bởi giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô về hôn nhân và gia đình, là cố gắng nên những phương tiện đầy hứa hẹn và thực sự cần thiết của việc trao đổi sự thật mang tính giải thoát, sự thật về hôn nhân Kitô giáo và gợi ý cho các người trẻ với niềm hy vọng mới cho chính họ và cho tương lai của họ, cũng như của đôi vợ chồng, và của những người cha và những người mẹ.
Tôi cũng ghi nhận mối ưu tư mà Anh Em diễn tả về việc bỏ hẳn những nền tảng luân lý Kitô, gồm cả việc tăng thêm những cám dỗ đang tăng thêm, làm sụp đổ với thái độ không lương thiện. Đó là một chủ đề mà Anh Em nói ra một cách ngôn sứ trong lời xác nhận về nạn tham nhũng. Như Anh Em nhấn mạnh, "tham nhũng là trộm cướp của người nghèo...  là đụng tới những người đáng thương tâm hơn hết… là làm hại toàn thể cộng đoàn… là phá hủy sự tín nhiệm của chúng ta". Cộng đoàn Kitô được mời gọi để sống vững chắc trong chứng tá về các nhân đức thanh liêm và trong trắng, đến nỗi chúng ta có thể đứng trước Thiên Chúa, và các người thân cận của chúng ta, với bàn tay trong sạch và với con tim trong trắng (xem Tv 24: 4) như là men bột của Phúc Âm trong đời sống của xã hội. Với lệnh truyền luân lý này trong tâm trí, Tôi biết rằng Anh Em sẽ tiếp tục nói tới những lo lắng này và những ưu tư xã hội khác, như là lo cho các người tị nạn và di dân. Chớ gì những người nam và nữ này luôn được đón nhận bởi các Cộng đoàn Công giáo, tìm ra trong họ những con tim cởi mở và những ngôi nhà mở toang ra khi họ đang đi tìm những cách thế giúp bắt đầu một đời sống mới.
Anh em Giám Mục thân mến, trong Tông Huấn của Tôi Niềm Vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium), được công bố khi kết thúc Năm Đức Tin, để kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng  Chung Vatican II, Tôi đã diễn tả hy vọng của Tôi là tất cả mọi Kitô hữu sẽ cùng đi trên một trang sử mới của việc rao giảng niềm vui của Tin Mừng, đi tìm "những nẻo đường mới cho hành trình của Giáo hội trong những năm sẽ tới" (xem số 1). Bây giờ là thời điểm để hun nóng lại ơn huệ quý báu của đức tin và như thế để canh tân việc phục vụ đầy lo lắng cho dân của Thiên Chúa! Chớ gì các Thánh tại Phi châu nâng đỡ Anh em qua lời bầu cử của các Ngài. Xin Đức Maria Mẹ của châu Phi luôn ở bên cạnh Anh Em, và xin Mẹ hướng dẫn Anh Em khi Anh em chia sẻ giáo huấn, khi thánh hóa và khi cai quản sứ mệnh của Đức Kitô.
Với các tâm tình này và với lòng yêu mến lớn lao, Tôi ban Phép Lành Tông Tòa cho Anh Em, cho tất cả các linh mục, các tu sĩ và giáo dân yêu quý của các Quốc Gia của Anh Em.
Từ Điện Vatican, ngày 25 tháng 4 năm 2014.
***
(Dịch theo nguyên bản tiếng Anh do Phòng Báo Chí Tòa Thánh phổ biến, ngày 25.04.2014.)
Linh mục Phanxicô Borgia Trần Văn Khả
(Nguồn: ubmvgiadinh.org)

SUY TƯ VỀ TÂN LINH MỤC

SUY TƯ VỀ TÂN LINH MỤC

LTS: Ngày 09/05/2014, tại giáo xứ Cách Tâm, giáo phận Phát Diệm, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng đã đặt tay truyền chức cho 4 tân linh mục. Nhân dịp này chúng tôi xin hợp mừng cùng các tân linh mục và cống hiến bạn đọc bài suy tư về chức vụ linh mục.

Mỗi khi có lễ truyền chức tân Linh mục, là lại có dịp cộng đồng dân Chúa nói đến vị thay mặt Chúa ở trần gian. Người ta gọi Ngài là Linh mục, nghĩa là người mục tử coi sóc đoàn chiên thiêng liêng. Danh hiệu mục tử là do chính Chúa Giêsu đã xưng nhận: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”, cả danh xưng thầy cả cũng xuất phát điểm từ Chúa Giêsu, khi Chúa dạy các tông đồ: “Dưới đất các con đừng gọi ai là thầy, vì các con chỉ có một thầy” (Mt 23,8) Như vậy, những danh xưng tặng cho các tân Linh mục đều xuất phát từ những danh xưng dành cho Chúa Giêsu. Vì thế, có người gọi Linh mục là Alter Christus – Chúa Giêsu thứ hai, một danh xưng gồm tóm được hết mọi danh xưng.

Người ta gọi Linh mục là thế nhưng nếu người ta xin ý kiến Chúa Giêsu về cách xưng hô thì chắc người ta sẽ ngạc nhiên vì câu trả lời của Chúa sẽ là câu Chúa đã trả lời cho hai anh em Giacôbê và Gioan: "Các người không biết các người xin gì ! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không ?" Và sau khi họ đáp : "Thưa uống nổi." Đức Giê-su bảo : "Chén của Thầy, các người sẽ uống ; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được." (Mt 20,22 - 23). Như vậy đời Linh mục không phải là vinh danh tả hữu Chúa Giêsu, mà là can đảm uống Chén đắng của Thầy.

Một chức vụ Linh mục như thế là thân phận của người phục vụ, người được sai đi. Chén vinh quang là chén đắng ứ tràn Chúa Giêsu trao cho các môn đệ thân tín. Hiểu ý nghĩa này, nên Giáo Hội là Mẹ, khi trao chén thánh cho tân chức Linh mục đã ban trao với lời tâm huyết: “Con hãy nhận lễ vật của dân thánh mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con thực hiện, và rập đời sống con theo khuôn mẫu Thánh Giá Chúa”.

Rập đời sống theo mẫu khuôn Thánh giá, chỉ có ý nghĩa thiết thực khi chính vị Linh mục trở nên giống Thầy chí thánh của mình, đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá. Thánh giá trên vai, Thánh giá đi vào đời, Thánh giá trên đôi tay ban phép lành hình Thánh giá. Sẽ là mâu thuẫn nếu người ta muốn lãnh nhận phép lành từ đôi tay Linh mục mà hình Thánh giá được vẽ lên từ đôi tay ấy lại khiến người ta khiếp sợ. Linh mục phải là người đồng hoá phép lành từ Thánh giá ấy, hay nói cách khác, Linh mục dâng thánh lễ Misa mỗi ngày là tái diễn hy tế Chúa Giêsu trên Thánh giá năm xưa. Tại sao người ta thích hình ảnh Môisê giang tay trên núi, mà hình ảnh Chúa Giêsu giang tay trên Thánh giá lại khiến người ta lảng tránh?

Hai anh em Giacôbê và Gioan, ít ra đã thưa được với Chúa Giêsu khi Chúa hỏi có uống được chén Ta sắp uống chăng? và chính từ lời thưa đó mà nhiệm vụ của tân linh mục được trao ban.

Với Đức Giêsu, Chén đắng ấy Ngài đã uống đến tận cùng. Trong tay Ngài có phủ việt, mặc áo hoàng bào, cho đến khi ở trên Thánh Giá, đầu ngài cũng đội mũ triều thiên, phía trên đầu cũng có tấm bảng công bố: Giêsu Nazareth Vua Do Thái. Tất cả đều là sự thật, chỉ có trong đầu óc giới lãnh đạo Do thái là tấn kịch của một màn phỉ báng. Vậy mà chính trong sự thật bi thương ấy, một trong hai người trộm bị đóng đinh hai bên tả hữu Chúa Giêsu, chứ không phải là tả hữu của Giacôbê và Gioan, đã xin được điều mà hai anh em tông đồ bị từ chối, khi Chúa Giêsu trả lời với người trộm bị đóng đinh đó rằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên đàng” (Lc 23, 43) 

Sau người trộm sám hối nhận ra vương quyền của Chúa Giêsu, là viên sĩ quan đội quân hành hình, ông đã thốt lên: “Đúng người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27, 54) Ngày nay không phải là hai người mà là hai tỉ người đã nhận ra vương quyền của Chúa Giêsu. Người Linh mục của Chúa cũng cần được từ bỏ đến tận cùng để sống noi gương Đức Giêsu. Các ngài cần bị tiêu tốn đến hết cuộc đời vì nhiệm vụ, bị vắt kiệt sức vì đoàn chiên, bị trút hết tiền của vì người nghèo…Tuy nhiên, trên thực tế, các Ngài cũng vẫn giầu và hạnh phúc. Cái giầu không đến chỉ do của cải nhưng do giá trị của đời sống tinh thần. Niềm hạnh phúc không do tìm kiếm kiểu thế gian nhưng là kết quả của tinh thần hiến thân theo triết lý của thánh Phanxicô khó khăn trong lời Kinh Hòa Bình: “Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

Nói cho cùng, Linh mục thời đại nào cũng vẫn luôn là một thách đố lớn giữa thời đại. Một thách đố đã được cụ già tiên tri Si-mê-on đã nói về Hài Nhi Giêsu: “ Con trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng dậy, và cũng là dấu hiệu cho người ta chống đối” (Lc 2,34)

Ngã xuống hay đứng dạy cho đoàn chiên, khởi đi từ chính mình. Một của lễ hiến tế diễn ra hàng ngày trong cuộc đời Linh mục chưa kể tới dấu hiệu cho ngừơi ta chống đối. Lối nhìn này có vẻ bi quan nhưng nó lại đúng hơn với cuộc đời Linh mục. Từ đó cái nhìn của mỗi người chúng ta không chỉ là tôn kính, nhưng còn là đồng cảm và đồng hành với vị chủ chiên của mình. Những danh xưng diễn tả đời linh mục đích thực bắt đầu từ đó.

Tay nâng chén thánh ơn trời,

Hồn nâng chén đắng cuộc đời chủ chăn.

Bước chân truyền giáo gian nan

Đi trong cay đắng, bình an trở về.

Gieo trong nước mắt tràn trề,

Gặt trong vui sướng, hả hê lúa vàng.

Không là thăng tiến vinh quang

Nhưng là đi xuống nhập hàng tôi trung

Không là kiến tạo anh hùng

Nhưng là phục vụ tới cùng vì chiên.

Vẳng nghe tiếng gọi thiêng liêng:

“Cánh đồng lúa chín cần thêm thợ nhiều”(Lc 10,2).

Chúc cha mới mỗi sáng chiều

Tôi trung của Chúa bao nhiêu mong chờ!.

Tác giả: LM. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Nguồn: www.vietcatholic.org