TẠI SAO THIÊN THẦN CÓ CÁNH ?

Tại sao thiên thần có cánh?


Lm. Giuse Phan Tấn Thành

 

Hồi đầu tháng này, phụng vụ kính lễ các thánh thiên thần bản mệnh. Các hoạ sĩ thường vẽ các thiên thần mặc áo trắng với đôi cánh. Tại sao các thiên thần lại mang cánh?
 
Chúng ta sẽ lần lượt đi từng bước một trong việc tìm hiểu ý nghĩa đôi cánh của các thiên thần, từ biểu tượng tự nhiên, sang nguồn gốc lịch sử và sau cùng là ý nghĩa thần học. Trên bình diện tự nhiên, đôi cánh chim biểu thị cho sự lanh lẹ. Chúng ta có thể thấy nhiều hãng hàng không lấy cánh chim làm biểu tượng, và cách riêng là các phi công đều đeo huy hiệu đôi cánh ở trên ngực, ra như chứng tỏ rằng họ có khả năng bay bổng như chim. Đó là biểu tượng tự nhiên. Bây giờ chúng ta cần phải đi lên một cấp nữa: tại sao lại gắn đôi cánh cho các thiên thần? Câu trả lời đơn giản hơn cả là tại vì muốn mô tả bản tính của các vị là nhanh nhẹn. Nhưng mà nhanh nhẹn làm cái gì? Thi đua với ai? Đây là câu hỏi mà các sử gia đặt ra.
 
Có lẽ thi đua với gió. Các thiên thần vọt nhanh hơn gió, có phải như vậy không?
 
Có lẽ đúng một phần, nhưng đó là xét theo ý nghĩa thần học. Các sử gia muốn biết từ hồi nào các hoạ sĩ đã gắn đôi cánh cho các thiên thần, và vì lý do gì? Cho đến nay, người ta cho rằng nguồn gốc của nó không phải là Kinh thánh, nhưng là các tôn giáo ở vùng Cận đông, nơi mà xuất hiện những vị thần linh dưới hình thù của một người hay thậm chí một con thú có mang cánh. Đôi cánh chỉ sự lanh lẹ, như chớp như gió. Tuy nhiên, Kitô giáo du nhập các hình ảnh đó hơi muộn. Chị nên biết là Do thái giáo tuyệt đối cấm việc hình dung Thiên Chúa bằng hình tượng. Lúc đầu Kitô giáo cũng tiếp nhận truyền thống đó. Dần dần, các Kitô hữu bắt đầu vẽ hình của đức Kitô, Thiên Chúa nhập thể, với những biểu tượng của vị mục tử. Rồi càng ngày nền mỹ thuật Kitô giáo phát triển với những bức chân dung của Đức Kitô, đức Maria, các thánh. Việc hoạ chân dung của các vị không khó, bởi vì họ cũng là con người như chúng ta. Chỉ cần thêm những nét biểu tượng các nhân đức trổi vượt nhờ cách tô điểm các mầu. Nhưng làm thế nào mà vẽ các thiên thần, vốn thuộc vào loài thiêng liêng, vô hình vô tượng? Các hoạ sĩ chỉ còn cách là dùng các khuôn mẫu đã có từ các tôn giáo hay các nền văn hóa đương thời. Theo các sử gia, khuôn mẫu gây ảnh hưởng trực tiếp đến lối biểu tượng các thiên thần là nữ thần chiến thắng Victoria của dân Rôma, được kính ngay tại trụ sở của Thượng viện đế quốc. Vị thần này mang áo dài trắng, với đôi cánh chim, và cầm triều thiên.
 
Như vậy, các Kitô hữu muốn nói lên rằng các thiên thần là những người chiến thắng ma quỷ, phải không?
 
Có lẽ đó không phải là ý nghĩa nguyên thủy. Lúc đầu, ý nghĩa của đôi cánh chỉ muốn nói lên sự nhanh nhẹn. Sự nhanh nhẹn ở đây không nên hiểu theo nghĩa vật lý (chạy đua xem ai đạt vận tốc cao hơn), nhưng theo nghĩa tinh thần: mau mắn trong việc thi hành ý định của Thiên Chúa. Chị nên nhớ rằng trong nguyên gốc tiếng Do thái và Hy-lạp của Kinh thánh, các thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Vì thế, sự mau lẹ được hiểu là họ chấp hành sứ mạng ngay tức khắc, không chần chừ, như chúng ta đọc thấy trong thánh vịnh 103, câu 20: “Chúc tụng Chúa đi, hỡi muôn vì thiên sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện Lời Người, luôn sẵn sàng phụng lệnh”.
 
Như thế cũng có thể ví các thiên thần bay lẹ như gió chứ gì?
 
Sự so sánh này khá tự nhiên. Tuy vậy, trong Kinh thánh Cựu ước, khi so sánh các thiên sứ với gió, thì có lẽ người ta không muốn nói tới sự nhanh nhẹn, cho bằng sự nhẹ nhàng. Trong tư tưởng cổ điển, gió và không khí tượng trưng cho thế giới thiêng liêng, đối lại với thế giới chất thể. Sở dĩ các thiên sứ nhanh nhẹn chu toàn sứ mạng một phần cũng tại các ngài không bị cản trở bởi vật chất. Thiết tưởng đây là điều mà vịnh gia muốn nói ở thánh vịnh 104, câu 3-4: “Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió. Sứ giả ngài: làn gío bốn phương, nô bộc Chúa, lửa hồng muôn ngọn”. Còn Phúc âm nhất lãm, khi tả quang cảnh của ngày chung thẩm thì nói đến việc các thiên sứ được sai đi để quy tụ muôn dân từ “bốn gió”, nghĩa là 4 phương trời (Mc 13,26-27; Mt 24,30-31).
 
Lúc nãy cha nói rằng khi du nhập biểu tượng của nữ thần Chiến thắng của Rôma, các Kitô hữu chỉ chú trọng đến ý nghĩa nhanh nhẹn của đôi cánh, chứ không lấy ý nghĩa chiến thắng. Nhưng mà có nhiều bức tranh vẫn vẽ thiên thần Micae chiến thắng quỷ dữ. Vậy là cũng có tư tưởng chiến thắng nữa đấy chứ?
 
Tôi chỉ ghi nhận ý kiến của vài nhà sử học mà thôi. Theo họ, khi du nhập biểu tượng thần chiến thắng, lúc đầu sự chú ý được dành cho đôi cánh, tượng trưng cho sự nhanh nhẹn nhẹ nhàng; về sau mới thêm tư tưởng chiến thắng. Ý nghĩa này được áp dụng cách riêng cho thiên sứ Micae, lãnh đạo các thiên sứ trong cuộc giao tranh với Satan, như chúng ta có thể đọc thấy ở sách Khải huyền chương 12, câu 7-9. Tuy nhiên, ý nghĩa chiến thắng không phải chỉ dành cho thiên sứ Micae, mà còn cho các Kitô hữu nói chung. Nhiều hoạ sĩ vẽ thiên thần hộ tống linh hồn của người lành về thiên quốc, tay cầm triều thiên đội lên đầu kẻ đã thắng tội lỗi và các chước cám dỗ.
 
Nếu con không lầm, thiên sứ Micae là đàn ông. Thế sao các bức tranh lại vẽ thiên sứ dưới hình thiếu nữ?
 
Nên biết là phái tính nam nữ chỉ áp dụng cho các loài có thể xác, chứ không áp dụng cho loài thiêng liêng. Vì vậy mà không thể nói được các thiên thần thuộc phái nam hay phái nữ. Bên Âu châu, việc hình dung phái tính chịu ảnh hưởng không nhỏ của từ ngữ, giống đực hay giống cái. Thí dụ như Hội thánh được ví như là mẹ, và hiền thê, bởi vì từ Ecclesia là giống cái trong tiếng Hy-lạp và La-tinh. Vì thế không lạ gì mà “tự do, công lý, chiến thắng” được hình dung như là nữ thần, bởi vì trong tiếng La-tinh và tiếng Pháp, các từ đó ở giống cái (Libertas, Justitia, Victoria). Còn từ “thiên thần” (angelus) là giống đực cho nên được hình dung là nam nhi là phải rồi. Trong Kinh thánh, ta thấy có những đoạn mô tả các thiên thần xuất hiện dưới hình của nam nhi, thí dụ như ở sách Sáng thế (chương 18, khi hiện ra với ông Abraham), sách Tôbia, về thiên thần Raphael, và trong Phúc âm nhất lãm khi nói về các thiên sứ hiện ra dưới hình một thanh niên, để báo tin Chúa Phục sinh cho các bà đi ra viếng mồ (Mc 16,5). Dựa theo các bản văn Kinh thánh, trong các thế kỷ đầu tiên, các bức hoạ vẽ các thiên thần theo hình nam nhi, đặc biệt là các thiên thần Micael, Raphael, Gabriel. Mãi tới thời cận đại người ta mới vẽ các thiên thần dưới hình thiếu nữ.
 
Tại sao vậy?
 
Có lẽ vì muốn tăng thêm phần duyên dáng xinh đẹp cho các ngài. Vả chăng, tuy các bức tranh cổ thời hình dung các thiên thần dưới hình dạng nam nhi, nhưng ta thấy các ngài cũng để tóc quăn và dài, má hồng môi thắm. Thật khó mà phân biệt được nam hay là nữ giới.
 
Và có lẽ y phục của các ngài cũng khó mà phân biệt được thuộc phái nào, phải không?
 
Thực ra trong xã hội cổ thời, y phục giữa nam giới và nữ giới không có gì khác biệt cho lắm. Trước đây, tại Việt Nam, các ông cũng để tóc dài búi tó, và mặc áo dài như các bà. Bên Tây phương, cũng tương tự như vậy. Vào thời cổ, các ông mặc áo thụng, mà vết tích còn duy trì nơi y phục của các linh mục và tu sĩ. Điều đáng chúng ta lưu ý là các hoạ sĩ đã quan niệm thế nào về hình dáng mà màu sắc dành cho y phục của các thiên thần. Cách chung, các vị mặc y phục màu trắng. Đây là lối trình bày dựa theo Kinh thánh, thí dụ khi mô tả các thiên sứ báo tin Chúa Kitô phục sinh (Mt 28,3): màu trắng không những chỉ tượng trưng cho sự thanh sạch nhưng còn tượng trưng cho sự sáng ngời của thiên giới. Ngoài căn bản lấy từ Kinh thánh, các hoạ sĩ cổ thời còn muốn khóac cho các thiên thần nhiều ý nghĩa khác. Các thiên thần mặc áo trắng toát như các thẩm phán và nghị sĩ của Rôma, bởi vì các ngài thuộc hàng chức sắc của triều đình thiên quốc. Về sau, các thiên thần cũng được khóac phẩm phục tư tế, để nói lên vai trò của các thiên thần là tiến dâng hy lễ chúc tụng trước toà Chúa.
 
Nhưng mà cũng có những bức hoạ vẽ y phục của thiên thần với đủ màu xanh đỏ đấy chứ?
 
Đúng vậy. Dĩ nhiên mỗi hoạ sĩ có những quan điểm riêng của mình khi nhuộm màu áo của các thiên thần. Tuy nhiên, theo các sử gia, các hoạ sĩ bắt đầu tô màu cho các thiên thần từ khi xuất bản tác phẩm “Phẩm trật thiên quốc” (De coelesti Hierarchia) của ông Đionixiô, vào khoảng thế kỷ V. Theo ông, trên thiên quốc, các thiên thần cũng được phân chia thành các đẳng trật (ông ta nói tới 9 đẳng) cao thấp khác biệt. Vì thế các hoạ sĩ muốn tô màu cho y phục của các thiên thần, nhằm phân biệt các đẳng cấp ấy. Tưởng cũng nên biết là vào thời cổ, người ta rất nể ông Điônixiô, vì tưởng lầm rằng ông ta là đồ đệ của thánh Phaolô, được sách Tông đồ công vụ nhắc đến ở chương 17 câu 34. Tác phẩm của ông được coi như mang nguồn gốc từ các thánh tông đồ. Nhưng mà, như đã nói, khoa sử học hiện đại cho rằng tác giả sống vào thế kỷ V, chứ không phải là đồ đệ của thánh Phaolô. Vì thế ông được đặt tên là Điônixiô giả (Pseudo Dionysius). Các hoạ sĩ bên Đông phương thường cho thiên thần Sêraphim mặc áo màu đỏ, còn thiên thần Kêrubim mặc áo màu xanh dương; số cánh cũng tăng lên 4 và 6. Sang thời Trung cổ, các thiên thần được gán cho nhiều chức vụ khác nhau, vì thế mà y phục cũng trở nên đa dạng: có vị lo việc coi sóc nhân gian, có vị lo chầu trước toà Chúa; có vị lo chiến đấu chống ma qủy, có vị phụ tá trong việc phán xét. Từ đó ta thấy có những thiên thần cầm cân, cầm giáo, hay là gảy đàn múa hát. Và bên cạnh các thiên thần tráng niên còn có các thiên thần tí hon, mình trần chỉ có thêm đôi cánh.
 
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Phan Tấn Thành Nguồn tin: www.daminhvn.net

THỜ CÚNG ÔNG BÀ CÓ HỢP VỚI LỜI CHÚA DẠY TRONG KINH THÁNH KHÔNG ?

Thờ cúng ông bà có hợp với lời Chúa dạy trong Kinh Thánh không?

 
Việc thờ cúng ông bà nói lên lòng mê tín sai lầm cho rằng người chết còn lai vãng trên mặt đất này, vì thế cần phải lập bàn thờ, phải kỵ giỗ, bái lạy, dâng hương khói đầy đủ. Điều này có hợp với lời Chúa dạy trong Kinh thánh không?
Kinh thánh đã nêu lên điều răn của Thiên Chúa: "Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi..." (Xh 20,12)
Điều răn này được ghi trong Luật của ông Mô-sê. Chúa Giêsu đã nhắc lại điều răn ấy và trách các kinh sư và biệt phái là đã không tuân giữa hẳn hoi (x. Mt 15,3-9).
"Thờ cha, kính mẹ", trong tiếng Do-thái (kabad), có nghĩa là "tôn vinh cha mẹ", vì cha mẹ là hình ảnh  của Thiên Chúa, Đấng mà Kinh thánh trình bày như là người cha (Hs 11,1-4; Is 1,2; Gr 3,19 v.v...) và cũng như là người mẹ (Is 49,15; Hs 11,8; Gr 31,20).
Tất nhiên trong các dân tộc khác nhau, ở mỗi nơi người ta có cách thức riêng để biểu lộ lòng tôn kính cha mẹ, tuỳ theo phong tục của họ:  người châu Âu ôm hôn cha mẹ; người châu Á thì chấp tay vái lạy để biểu lộ lòng cung kính, chứ không bao giờ hôn ở chỗ công khai. Thánh Phaolô khi đi truyền giáo cũng phải "nhập gia tuỳ tục" như thế. Ngay sau khi mới bắt đâu tiếp xúc với dân ngoại, người đã không giữ tên Do-thái là Sa-un của mình nữa, mà dùng tên Hy-lạp Phaolô (Cv 9,46). Sau này người còn nói:
"Với người Do thái, tôi đã trở nên Do thái, để chinh phục người Do thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã nên người sống theo Lề Luật, dù không phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những người sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Kitô, đê chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người" (1 Cr 9,20-22).
Nguyên tắc sống mà thánh Phaolô nêu ra đó, ngày nay được  gọi là "hội nhập văn hoá": người tông đồ đồng hoá cách sống của mình với những người chung quanh, tất nhiên trên bình diện văn hoá, mục đích là để đưa Tin Mừng đến cho họ, giúp họ khám phá ra rằng những gì là tốt lành nơi con người đều phát xuất từ Thiên Chúa, và khi người ta giữ các giới răn của Thiên Chúa, người ta đề cao phẩm giá và bảo vệ chính sự sống của mình.
Việc "thờ cha kính mẹ" rất được coi trọng nơi người châu Á trong đó có dân tộc Việt-nam ta. Điều đó cũng rất phù hợp với đạo lý của Kitô giáo. Chúng ta cần lưu ý vài điểm sau đây:
a. Người châu Á nói chung biểu lộ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ không những khi các ngài còn sống, mà cả khi các ngài đã qua đời. Khác với người ngoại giáo cho rằng những người quá cố hoặc là bị tiêu diệt hoàn toàn hoặc là linh hồn họ lai vãng chỗ này chỗ kia trên trái đất, người Công giáo tin rằng ông, bà, tổ tiên của mình đã qua đời một cách nào đó vẫn tồn tại trong Chúa, chứ không bị huỷ diệt thành hư vô. Vì thế tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên là một khía cạnh của mầu nhiệm các thánh thông công trong Nhiệm thể Chúa Kitô.
b. Người Việt-nam gọi lòng hiếu thảo đối với cha mẹ là "đạo hiếu": tuy gọi là "đạo", nhưng đây không phải là tôn giáo hay là tín ngưỡng, vì ông, bà, cha, mẹ đã qua đời không phải là những vị thần mà con, cháu phải thờ phượng. Tiếng "đạo" ở đây chỉ có nghĩa là những bổn phận (kiểu như "đạo làm người") mà con, cháu phải thi hành để biểu lộ lòng hiếu thảo như tưởng nhớ, nhắc lại công ơn, cầu nguyện...
Vì thế việc lập bàn thờ gia tiên trong gia đình (miễn là đặt dưới bàn thờ Chúa), dâng hoa, dâng trái, dâng hương không có nghĩa là dâng của lễ, nhưng có nghĩa là "tôn vinh" theo kiểu nói Kinh thánh "tôn vinh cha mẹ": nói cách khác các cử chỉ ấy chỉ có mục đích nhắc nhở cho con cháu sự tồn tại của các ngài trong tình yêu Thiên Chúa và công ơn các ngài đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng nuôi và giáo dục chúng ta.
c. Việc chấp tay vái lạy có nghĩa là bái chào một cách kính cẩn như nhiều dân tộc châu Á vẫn hiểu và làm (ví dụ Nhật, Trung-quốc, Hàn quốc, Thái-lan...), chứ không nhất thiết có nghĩa là tôn-thờ.
d. Ngày giỗ hay "kỵ nhật" là ngày kỷ niệm giáp năm ngày chết : đó là ngày mà con cháu thường họp nhau để kính nhớ tổ tiên, cầu nguyện cho các ngài, chứ không phải là ngày tế-tự hay kiêng kỵ.
Các giám mục miền Nam Việt-nam năm 1974 đã cho phép các tín hữu Công giáo trên đất nước này tôn kính tổ tiên "theo phong tục địa phương" và theo tinh thần như vừa nêu trên: đó là một cách cụ thể tuân giữ giới răn Chúa dạy "phải thờ cha, kính mẹ". Các giám mục cũng khuyên chúng ta phải tránh những phong tục mê tín, dị đoan như đặt hồn bạch (đăt khăn trắng lên mặt người chết để giữ linh hồn họ lại), đốt vàng, mã... Ngoài ra người công giáo chúng ta cũng nên tránh những cử chỉ, những vật liệu có thể gây hiểu lầm cho người ngoại giáo cũng như cho những anh em  Kitô hữu không phải Công giáo.
Norberto

Tác giả bài viết: Norberto Nguồn tin: catechesis.net

CỨU ĐỘ - CỨU RỖI - CỨU THẾ - CỨU CHUỘC...

Cứu Độ - Cứu Rỗi - Cứu Thế - Cứu Chuộc …

Thành Phương

Cứu độ, cứu rỗi, cứu thế, cứu chuộc,… là những từ ngữ chỉ về một thực tại: ơn cứu độ. Theo Kinh thánh Tân ước, đó là: “mầu nhiệm vương quốc Thiên Chúa” (Mc 4,11), “bí mật của vương quốc” (Rm 11,25, 1Cr15,51), “mầu nhiệm giấu ẩn” (Rm 16,25), “mầu nhiệm không một ai trong các thủ lãnh thế gian này được biết” (1Cr 2,8), “mầu nhiệm của Tin mừng” (Ep 6,19-20).Như thế, có thể nói, Cứu độ là một mầu nhiệm, là Kế hoạch của Thiên Chúa để công chính hóa con người và con người “được nên công chính nhờ đức tin” (Rm 5,1). “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian đến hồi viên mãn, là qui tụ muôn loài trong trời đất, dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10). Như thế, ngày cánh chung, ngày “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự”

Tuy có cùng một quan điểm, nhưng mỗi từ ngữ nhằm nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau:

- Cứu độ (secourir): là độ qua sông, đưa từ bờ bến bên này qua bờ bến bên kia, từ bóng tối vào ánh sáng, từ tội lỗi đến công chính. Từ ngữ này nhấn mạnh đến một quá trình và quá trình được thực hiện nơi Đức Giêsu, Đấng Cứu độ duy nhất.

- Cứu rỗi (accorder la grâce): “Cứu linh hồn khỏi đày xuống địa ngục” (Thanh Nghị, Việt Nam Tân Tự Điển) “cứu vớt linh hồn, theo một số tôn giáo” (Trung tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại Tự Điển tiếng Việt, Hà nội 1999). Từ ngữ này có lẽ muốn nhấn mạnh đến tình trạng một linh hồn được cứu thoát.

- Cứu Thế (sauver le monde): “cứu đời, cứu người đời thoát khỏi cảnh khổ đau, theo một số tôn giáo” (Trung tâm ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại Tự Điển tiếng Việt, Hà nội 1999).Từ ngữ này xem ra nhấn mạnh đến khía cạnh tự nhiên hơn là siêu nhiên. Người ta vẫn nói: Cứu nhân độ thế.

I. CỨU ĐỘ HAY CỨU CHUỘC

Bài này xin trình bày quan điểm cứu chuộc cùng các hệ luận tiêu cực phát xuất từ quan điểm “chuộc” (racheter, expier, retribuer). Cứu chuộc là chuộc lại những tội lỗi nhờ một công cuộc giá trị. Đức Giêsu cứu chuộc trần gian bằng giá máu của Người.

Trước hết, cần xác tín công trình cứu chuộc là một mầu nhiệm chính Đức Giêsu thục hiện, Mầu nhiệm tập trung nơi Đức Kitô. Trong thư Cô-lô-xê, thánh Phaolô viết: Tôi phải rao giảng Lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng Mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho Dân Thánh của Thiên Chúa. Người đã muốn cho họ được biết Mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,25-27). “Tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào… để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và nhờ được liên kết chặt chẽ với nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2,1-3). Như thế, Đức Kitô chiếm địa vị quan trọng trong đời sống đức tin của chúng ta, vì chúng ta tuyên xưng Người là Đấng Cứu Thế.

Thứ đến, theo Thần học cổ truyền, tội lỗi là xúc phạm đến Thiên Chúa, đáng lên án phải chết đời đời và Đức Kitô con Thiên Chúa đã chết để đền tội thay cho chúng ta. Chỉ mình Người mới có thể dâng hy lễ chuộc tội (cứu chuộc) cách cân xứng với sự xúc phạm này. Thực vậy, khi xúc phạm đến Đấng Vô Cùng, chúng ta hữu hạn không thể bù đắp cân xứng được. Do đó, cần phải có một Đấng Vô Cùng mới trả nợ cân xứng. Hơn nữa, cuộc khổ nạn đổ máu của Người trên thập giá mới “chuộc lại” cân xứng.

Lối lập luận như thế, sẽ gặp nhiều vấn nạn:

1. Thiên Chúa được trình bày như một vị quan toà nghiêm thẳng, chỉ nghĩ đến công lý và báo oán. Người đòi phải đền bù cân xứng để chuộc lại sự xúc phạm. Điều này hẳn là xa lạ với mạc khải về Thiên Chúa như người cha nhân hậu trong Tin mừng.

2. Đức Giêsu bị hạ giá. Chỉ có cái chết của Người trên Thập giá mới có giá trị còn cuộc đời rao giảng trước đó xem ra vô nghĩa. “Máu chiên bò Chúa không ưng…” được thay thế bằng máu của Chúa Giêsu, xem ra không lưu tâm đến tình yêu và sự vâng phục vốn là hai yếu tố chính trong công trình cứu độ.

3. Khái niệm ơn cứu độ sẽ gặp phải khó khăn là chỉ giới hạn vào việc chuộc tội. Quan niệm như thế có ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại, đến công cuộc thăng tiến nhân loại.

II. GIẢI THÍCH THẦN HỌC CỨU CHUỘC VÀ NHỮNG HỆ LUẬN

Quan niệm về sự cứu chuộc như là đền bù cho sự công thẳng của Thiên Chúa chỉ xuất hiện với thần học của thánh An-xen-mô, vào lúc khai sinh kinh viện, lúc bắt đầu áp dụng ý niệm pháp đình vào việc phân tích bản văn Kinh thánh, vốn đặt nặng vấn đề công lý, thưởng phạt. Từ đó về sau, thần học cứ lặp đi lặp lại tư tưởng ấy, mà không chịu đào sâu thêm các từ khác dùng trong Kinh thánh, cũng như không xét xem Kinh thánh dùng các tiếng “hy sinh, chuộc tội” theo nghĩa pháp đình hoặc theo nghĩa khác nữa?

Cần lưu ý là: Kinh thánh cho ta thấy rằng Đức Kitô đến trần thế này không phải chỉ để đền tội thay cho chúng ta, để lãnh án phạt tử hình mà chúng ta đáng chịu. Đức Kitô chính là mạc khải của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người: Người đến để thông chia cho chúng ta tình yêu dồi dào của Ba Ngôi Thiên Chúa, đem tình yêu của Thiên Chúa chiếu rọi vào trong cảnh sống lầm than của con người.

Như thế, Đức Kitô là Đấng Cứu Thế bằng tất cả cuộc đời của Người, chứ không phải chỉ có lúc chết trên Thập giá. Thực vậy, Người chính là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trao ban cho con người qua hết mọi lời nói và hành động của Người: Người làm bạn với người tội lỗi, tiếp xúc với người bị xã hội ruồng bỏ; Người chữa lành các người bệnh tật và quỷ ám. Suốt cuộc đời của Người là sự trao ban tình yêu: Người là “một người sống cho người khác”.

Chỉ trong bối cảnh như thế mà cái chết của Đức Giêsu có ý nghĩa. Giá trị cái chết của Người không phải ở chỗ bị giết, bị ám sát, nhưng là ở chỗ biểu lộ tới tột điểm lý tưởng mà Người đã thực hiện suốt cuộc đời, tức là trao ban mình cho người khác, một cách tình nguyện và tự do. Cái chết của Người không phải nhằm để thỏa mãn sự công thẳng của Thiên Chúa cho bằng để bộc lộ tình yêu trao ban của Thiên Chúa dành cho loài người.

Bởi vậy, chúng ta không thể chỉ giới hạn vào quan điểm công lý pháp đình để tìm hiểu sứ mạng của Đức Kitô, nhưng cần phải khởi đi từ động lực tình yêu, liên đới. Người chia sẻ thân phận cùng cực của chúng ta, đồng thời nâng cao kiếp sống chúng ta từ hàng nô lệ lên hàng con cái Thiên Chúa. Người khơi dậy cho chúng ta một sức lực mới, có khả năng để đổi mới cuộc đời.

Dù sao đi nữa, Kinh thánh mô tả tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại không phải dưới viễn ảnh của luật pháp hay tương quan giữa vua chúa với thần dân. Mối tương quan của Thiên Chúa được biểu lộ qua tiếng “giao ước”, hay nói đúng hơn nữa, qua từ ngữ của “tình yêu”.
Tội lỗi của con người không xúc phạm đến sự công thẳng cho bằng đến tình yêu của Người, tình yêu bị hất hủi, phản bội. Thế nhưng, thay vì đòi hỏi con người phải đi bước trước để xin tạ lỗi, thì Tân ước cho ta biết rằng Thiên Chúa, như người mục tử nhân lành hoặc như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng, đã lên đường để đi tìm người tội lỗi.

Cái chết của Đức Kitô cần được nhìn trong nhãn giới: đó chính là biểu hiện của một mối tình bị hất hủi do tội lỗi của con người, và đồng thời là sự bày tỏ tình yêu liên đới qua việc tha thứ và chuyển cầu, chứ không phải xin báo oán.

Thiên Chúa không ưa thích cái chết của Đức Kitô như sự đền bù danh dự bị xúc phạm! Thiết tưởng đừng nên nói rằng “Chúa nguôi giận vì hy lễ đền tội của Đức Kitô”, vì nói như thế là “coi thường” Thiên Chúa: Người khắc nghiệt thích trừng phạt (Theo thần thoại, của lễ làm các thần nguôi giận và không trừng phạt nữa), nhưng nên nói rằng: “trước mặt Thiên Chúa, cái chết của Đức Kitô có giá trị, bởi vì Người đã muốn chấp nhận cái chết như dấu chỉ liên đới với số phận của nhân loại, và để tỏ ra rằng: Thiên Chúa yêu thương nhân loại cũng như là yêu thương chính Con Một của mình vậy.

Khi bàn về giá trị cái chết của Đức Giêsu, một từ ngữ thường được sử dụng là hy lễ (lễ hy sinh: sacrificium). Tuy nhiên chúng ta nên cẩn thận để tránh ngộ nhận. Thường thì người ta quan niệm giá trị của hy lễ ở chỗ sát tế lễ vật: vật bị giết biểu lộ tâm tình đau khổ tan nát của chúng ta trước mặt Thiên Chúa vì đã xúc phạm Ngài. Quan niệm như vậy, ngoài giả thuyết một hình ảnh của Thiên Chúa nghiêm thẳng, lại còn làm lệch lạc ý nghĩa của hy lễ. Cần phải nhìn hy lễ dưới viễn ảnh khác, trong tương giao tình yêu. Để tỏ lòng yêu ai, thì chúng ta thường biếu quà cáp; món quà trọng nhất là biếu chính bản thân cho người yêu. Sự sát tế lễ vật nhằm biểu lộ ý muốn dâng hiến trọn vẹn, vô điều kiện, không bao giờ lấy lại nữa. Dù sao, trong Tân ước, hy lễ đẹp lòng Chúa không hệ tại việc sát tế chiên bò lễ vật: Chúa không ưa những quà cáp bên ngoài, nhưng là ước mong con người dâng chính bản thân qua việc chấp nhận vâng nghe lời Người.

Vai trò của Đức Kitô không chấm dứt với cái chết. Qua sự sống lại, lên trời, ban Thánh Thần, Người còn tiếp tục sứ mạng Cứu Thế qua việc chuyển cầu cho chúng ta. Không những Người là một gương mẫu cho chúng ta bắt chước, nhưng nhờ sự phục sinh (chiến thắng tội lỗi, sự ác, sự chết) Người còn trở nên nguyên nhân cứu thoát cho chúng ta, cứu chúng ta khỏi lo âu, sợ hãi, khỏi tính ích kỷ; trả lại cho chúng ta sức mạnh và tự do, ngõ hầu ta có thể mạnh dạn ra đi lên đường phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

Đi xa hơn một chút, khi nói đến “cứu thoát”, “cứu tinh”, chúng ta đương nhiên nghĩ đến hai tình trạng. Một là tình trạng hiện tại, cảnh tượng bị khốn khổ, tù đầy, nô lệ, và vì vậy cần được giải thoát; hai, là tình trạng tương lai, sau khi đã được giải thoát rồi. Thường thì tình trạng đầu trong thần học được diễn tả như là: tội lỗi, nô lệ của ma quỷ; còn tình trạng thứ hai thì được diễn tả như là sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa.

Tuy nhiên, thần học giải phóng cho rằng quan niệm cứu độ như vậy đâu có nhằm đến toàn thể con người, bởi vì con người đâu phải chỉ có linh hồn cần phải lo cho được rỗi ở đời sau; con người còn có thân xác và sống ở đời này nữa chứ. Như thế, một câu hỏi: ơn cứu độ của Đức Kitô có ảnh hưởng đến thân phận con người ở đời này, đến lịch sử hiện đại, đến các thể chế luân lý, pháp lý, chính trị, xã hội hay không?

Câu trả lời tất nhiên là có. Chúng ta cần lưu ý là: con người càng ngày càng ý thức về ơn cứu độ không phải hệ tại cần được giải phóng khỏi cảnh nghèo đói, bệnh tật, dốt nát, bất công; nhưng chính là khôi phục lại cho con người tự do, phẩm giá của mình đã bị chà đạp do những cảnh bất công vừa kể.

Khi đi vào tận gốc rễ của vấn đề như vậy, ta có thể vượt qua vấn nạn nói trên đây về sự cứu độ linh hồn hay cứu thể xác, cứu đời này hay cứu đời sau. Thực vậy, khi nhấn mạnh ơn cứu độ là khôi phục lại tự do phẩm giá cho con người, chúng ta sẽ thấy tất cả những hệ luận phong phú của nó, xét vì không những mở cửa cho con người hiệp thông với Thiên Chúa, nhưng còn thúc đẩy con người hành động cách tự do để thăng tiến phẩm giá cho mình và cho đồng loại.

Một khi đã ý thức về ơn gọi cao quý của con người: là dưỡng tử của Thiên Chúa, thì người tín hữu, theo gương Đức Giêsu, sẽ ra tay đương đầu với những lực lượng nào đè bẹp ơn gọi ấy; và theo gương Đức Giêsu, họ không ngại hiến mình cho tha nhân; họ thâm tín rằng cuộc sống của họ không bị tắt nghẽn với cái chết, nhưng nhờ sự Phục sinh của Đức Kitô, họ được cứu thoát khỏi cái chết, để chia sẻ sự sống với Đức Chúa Ba Ngôi.

Để kết luận, chúng ta đã chú trọng đến ơn cứu chuộc xét theo phương diện Kitô học và một số vấn đề thần học được nêu lên chung quanh đề tài cứu độ của Đức Kitô, còn những hậu quả của ơn cứu chuộc sẽ dành cho Giáo hội học, Bí tích học và Thần học về Ơn Thánh. Có thể nói, ý nghĩa của công trình cứu chuộc đức Kitô thực hiện chính là mạc khải tình yêu Thiên Chúa (chứ không phải chỉ nhằm thỏa mãn sự công thẳng của Người). Nhờ công trình đó, Người mang đến cho con người một cuộc sống ý nghĩa với tình liên đới, tự do, phục vu,ï vốn là chiều kích nhân sinh của ơn cứu độ.

---------------------------------------
THƯ MỤC

1. B. SESBOUE, Jésus Christ, I’unique Médiateur. Essai sur la rédemption et salut. I: Problématique et relecture, Paris 1988.
2. OLEGARIO GONZALEZ DE CARDENAL, La soterio-logia contemporanea, “Salmanticensis” 36 (1989), 267-317

Nguồn tin: Học Viện Đaminh
Tác giả bài viết: Thành Phương Nguồn tin: catechesis.net

NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐƯỢC CHƯNG TRÁI CÂY LÊN BÀN THỜ NGƯỜI ĐÃ KHUẤT KHÔNG ?

Người Công giáo được chưng trái cây lên bàn thờ người đã khuất không?


Thưa cha, Người Công giáo có được phép chưng trái cây lên bàn thờ người đã khuất? Và có được phép nói : “Người chết thiêng phù hộ cho con cháu làm ăn, học hành tấn tới không ?”.(Lê Minh Hoàng, TP.HCM)

Trả lời: 

       Bạn Minh Hoàng thân mến, câu hỏi của bạn rất hợp cho tháng Mười Một ,tháng các Linh hồn, tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời.
      Đi sâu vào văn hóa, phong tục, ba ngày Tết nguyên đán, các cha thừa sai đã để ý tới phong tục Việt Nam, nên đã dạy : Mồng Một thờ lạy Đức Chúa Cha, lần hạt năm chục cầu cho ông bà tổ tiên, Mồng Hai thờ lạy Đức Chua Con cầu cho các linh hồn ở Luyện ngục, Mồng Ba thờ lạy Đức Chúa Thánh Thần lần hạt năm chục cầu cho được bằng yên. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam hiện nay dạy :  Mồng Một Tết cầu cho được bình an, Mồng Hai Tết kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ, Mồng Ba Tết thánh hóa công ăn việc làm.
      Cái sợ nhất của các ngài là sợ mắc vào tội thờ ngẫu tượng, mê tín dị đoan nên đã có những tranh luận, cãi nhau ở Việt Nam và ngay ở Tòa Thánh. Sắc lệnh  Ex Quo singulari năm 1742 của Đức Giáo hoàng Bênêdictô 14 cấm những hình thức thờ người quá cố, các nhân vật có công với xã hội, với nghề nghiệp như là thần linh.Cho phép dùng từ ngữ Thiên Chúa, không cho dùng từ ngữ “thiên, thượng đế, kính thiên “ v.v . 
      Mãi sau nầy, Hội Đồng Giám mục Việt Nam đã xin phép Tòa Thánh cho tín hữu Việt Nam được tôn kính tổ tiên, các anh hùng của đất`nước vì đây chỉ là cách bày tỏ lòng hiếu thảo, kính mến tổ tiên người có công trạng theo ý nghĩa phần đời .
      Theo Thông tư của Hội Đồng Giám mục Việt Nam ngày 14-9-1965, ta phân biệt :
          a/ Những việc chỉ có tính cách dân sự trần thế với mục đích nhớ ơn, tuyên dương công trạng, bày tỏ hiếu thảo thì làm và tham dự chủ động. Thí dụ : lập bàn thờ tổ tiên ở trong nhà có chưng hoa quả (nhưng phải dưới bàn thờ Chúa, Đức Mẹ, Các Thánh) treo hình ảnh người quá cố, dựng tượng, lễ tưởng niệm người có công trạng với quê hương v,v .
         b. Nhưng lễ có tính tôn giáo để thờ lạy người quá cố, xem hương hồn người quá cố về hưởng các lễ vật chất : rõ ràng không hợp với Giáo lý Công giáo, những lễ kính các nhân vật, các thánh tổ như là thần linh. như là Thiên Chúa đều là hình thức thờ ngẫu tượng trái với Giáo lý Công giáo cử hành ở nơi nào nhất là nơi thờ tự, tín hữu Công giáo không được tham dự.Nếu cần thiết vì phép xã giao v.v thì chỉ hiện diện như vị khách  (hiện diện cách thụ động).
        c. Những việc lẫn lộn giữa tôn thờ ngẫu tương và tôn kính thánh tổ, hoặc người quá cố, phải căn cứ vào phép lịch sử và lòng hiếu thảo thì cần theo dư luận chung của địa phương đó để tìm ra cho mình một thài độ thích hợp khi mình có mặt tại buổi lễ đó.
        Chung quanh vấn đề báo hiếu người quá cố, Hội Thánh cấm những gì không hợp với Giáo lý Công giáo, thí dụ : thắt hồn bạch, thu hồn bạch (tấm lụa hoặc tấm vải trắng dài đặt trên ngực người hấp hối, khi bệnh nhân tắt thở, tầm vải thâu lấy hơi thở cuối cùng và thắt tấm vải thành hình người để thờ trên bàn thờ sau bát hương.Khi tế đề chủ, người ta thâu hồn bạch, rồi viết tên húy, tên họ, quan chức người quá cố vào hai mảnh gỗ do quan đề chủ viết và gia đình thờ người quá cố ở bài vị đó .
        Về việc ăn của cúng, thánh Phaolô dạy giáo dân Corintô:“Nếu có người ngoại giáo nào mời anh em đi ăn tiệc, anh em bằng lòng đi thì người ta dọn gì anh em cứ ăn, đừng có gạn hỏi vì cớ lương tâm”.Nhưng nếu có ai bảo  : “Đó là đồ cúng thần thì anh em đừng ăn vì người ta đã mách bảo  (1Cor 10, 27-30) .Ăn trong đám tế thần ở nơi thờ tự của họ : không được (Văn thư Tòa Thánh năm 1768 và 1844 ). Người trong nhà ăn của cúng như ăn cơm thường vì ngoài của cúng chủ nhà không còn nấu gì nữa.Hành khất xin của ăn người mua bán ở chợ dầu là của cúng đều được dùng . 
        Như vậy, ta có thể chưng hoa quả, trái cây nơi bàn thờ kính nhớ người quá cố.
       Ta cũng có thể nói : xin ông bà, cha mẹ … cầu nguyện xin Chúa cho con cái khỏe mạnh, làm ăn tấn tới được  vì chúng ta dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa ban cho các Ngài ở trên trời hoặc nếu ở trong luyện ngục cũng cầu xin Chúa cho con cháu được vì mầu nhiệm Các Thánh thông công .
               
Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh
Tác giả bài viết: Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh Nguồn tin: Conggiao.info

DÙNG iPAD ĐỂ ĐỌC TIN MỪNG TRONG THÁNH LỄ ĐƯỢC KHÔNG ?

 Dùng iPad để đọc Tin Mừng trong Thánh lễ được không?


Hỏi: Tôi muốn biết liệu tinh thần của “Qui chế Tổng Quát của Sách Lễ Rôma” sẽ cho phép linh mục sử dụng iPad để đọc Tin Mừng được không? Nếu được, sau khi đọc xong, linh mục hôn iPad hay hôn Sách Tin Mừng? - H. A., Lashibi, Ghana
 

Đáp: Cho đến nay, Giáo Hội hoàn vũ chưa có tuyên bố chính thức nào về việc sử dụng các máy tính bảng điện tử trong phụng vụ. Ít nhất một Đức Hồng Y, khi cử hành thánh lễ trong nhà thờ chính tòa của ngài, đã công khai sử dụng một máy tính bảng thay cho sách lễ, nhưng điều này không tạo ra sự phê chuẩn chính thức. Ngược lại, một tuyên bố gần đây của Hội đồng Giám mục New Zealand nói rằng máy tính bảng không được sử dụng cho Thánh Lễ và các nghi lễ công khai khác.

Do đó những gì tôi nói không có chỗ đứng chính thức nào. Tôi tự giới hạn vào điều tôi xem có liên quan đến các nguyên tắc phụng vụ mà thôi.

Mặc dù tôi sử dụng một máy tính, tôi thừa nhận rằng tôi không ái mộ công nghệ và tự quản lý để tồn tại, mà không bị ràng buộc bởi điện thoại di động hay máy tính bảng.

Liên quan đến việc sử dụng điện thoại hoặc máy tính bảng, tôi không thấy bất kỳ khó khăn lớn nào cho linh mục hay bất cứ ai khác, trong việc sử dụng các thiết bị này để đọc Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nhất là khi đi đường xa hoặc du lịch.

Đối với việc sử dụng một máy tính bảng để thay thế cho sách lễ, sách bài đọc và sách Tin Mừng trong Thánh Lễ, tôi sẽ do dự nhiều hơn.

Một mặt, người ta có thể lập luận rằng các sách phụng vụ, giống như bất kỳ cuốn sách nào khác, là một phương tiện lưu giữ và truyền tải thông tin. Trong ý nghĩa này, máy tính bảng thực hiện tốt chức năng tương tự như các trang sách in, nhưng với một số lợi thế gia tăng khác. Ví dụ, máy tính bảng có thể chứa tất cả các sách nghi lễ vào một chỗ, và nó cho phép chủ tế có thể chuyển đổi bản văn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác khi cần thiết, và điều chỉnh kích cỡ chữ để đọc cách thoải mái nhất.

Mặt khác, có một nguyên tắc, vốn trong khi không cần thiết cho phụng vụ, là nên cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng các công cụ như vậy.

Giáo Hội có truyền thống dành riêng các vật dụng được sử dụng trong phụng vụ cho các chức năng thiêng liêng mà thôi. Do đó, các vật dụng này thường được làm phép, để tách rời chúng ra khỏi tất cả các sự sử dụng khác. Người ta không được dùng chén thánh cho mục đích gia dụng; linh mục cũng không được lái xe xung quanh thị trấn trong bộ áo lễ. Lý do cho điều này là không phải sự phi thực tế của hành động, nhưng bởi vì các vật dụng thánh thiêng được dành riêng cho một thời gian, một địa điểm và một chức năng đặc biệt.

Tương tự như vậy, các cuốn sách được sử dụng trong việc cử hành phụng vụ thường được làm phép và chỉ dành cho việc sử dụng linh thiêng. Chúng cũng được in và bị ràng buộc trong một định dạng, vốn nhấn mạnh mục đích thánh thiêng của chúng.

Tuy nhiên, máy tính bảng, do bản chất của nó, có khả năng đa dụng. Có một cái gì đó phi lý trong việc sử dụng một máy tính bảng như là một sách lễ hoặc sách bài đọc, và ngay sau đó nó được sử dụng nó để trả lời điện thư, lướt web, hoặc tải về máy một bộ phim.

Sách Tin Mừng là một trường hợp, mà trong đó tôi tin rằng các qui tắc hiện hành áp dụng cho vấn đề của chúng ta. “Qui chế Tổng Quát của Sách Lễ Rôma”, số 120D, xác định rằng chỉ có sách Tin Mừng, chứ không phải sách bài đọc, có thể được rước đi trong cuộc rước đầu lễ, đặt trên bàn thờ. Sự phân biệt này chắc chắn có nhắm tới máy tính bảng đa dụng, do đó tôi nghĩ chúng ta có thể nói rằng các qui tắc ấy đã loại trừ việc rước máy tính bảng, đặt nó trên bàn thờ, và xông hương cho nó.

Có thể suy đoán rằng sau này ai đó có thể phát triển một máy tính bảng để sử dụng độc quyền cho phụng vụ, với một thiết kế thích hợp và không có các chương trình khác được cài đặt kèm theo. Lúc ấy, điều đó có thể làm thay đổi cuộc tranh luận về vấn đề này.

Cho đến khi thời gian ấy xảy ra, tôi nghĩ rằng tốt nhất chúng ta nên tránh sử dụng các công cụ này, để duy trì sự nổi biệt thiêng liêng của phụng vụ khỏi sự buồn tẻ của các hoạt động thông thường.

Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một linh mục đi du lịch, tự tìm thấy mình bị bắt buộc và không có sách lễ nào để sử dụng, tôi tin rằng linh mục ấy có thể sử dụng một máy tính bảng để cử hành Thánh Lễ. (Zenit.org 12-6-2012)

Sử dụng iPad như thế nào trong phụng vụ?

Nhiều độc giả viết thư góp ý thêm về bài của tôi ngày 12-6 về việc dùng iPad như một Sách lễ hoặc Sách bài đọc. Thực tế, tất cả đều đồng ý với lập luận rằng truyền thống gìn giữ các đồ vật thánh cho việc phụng vụ mà thôi có thể loại trừ các công cụ như là iPad trong cung thánh. Một độc giả nhận xét: "Tất cả là vì sự thánh thiện, hoặc bây giờ, là thiếu sự thánh thiện. Vì lý do tốt lành, Giáo Hội đã trao cho chúng ta các công cụ thích hợp (trong trường hợp này, là Sách lễ, Sách bài đọc) để sử dụng, và thật buồn để nói rằng có những người muốn làm theo ý riêng họ, bất kể là gì".

Một số độc giả hỏi về việc sử dụng các công cụ này (chẳng hạn iPad) trong các lĩnh vực khác của phụng vụ. Một ca trưởng ở Mỹ nhận xét: "Con muốn nói với cha rằng con có cả một thư viện âm nhạc trong iPad, và con chỉ sử dụng nó độc quyền trong việc cử hành Thánh Lễ, như là một phần của thừa tác âm nhạc. Ngoài ra con không sử dụng iPad này vào việc gì khác. Tuy nhiên, nếu ai đó nói với con rằng nó có thể được linh mục dùng thay sách lễ, con thực sự phải suy nghĩ về điều đó. Nếu nó là một sự lựa chọn duy nhất, Thiên Chúa chắc là muốn Lời Ngài được tuyên bố như thế".

Tôi thấy không có trở ngại nào trong việc các nhạc sĩ và những người khác sử dụng các thiết bị này, chẳng hạn iPad, thay vì phải dùng nhiều sách, tập nhạc và các bản sao.

Mặc dù độc giả trên không nói rõ về điểm này, cần nhắc lại rằng trong khi chức năng phát lại (playback) của các thiết bị này có thể được sử dụng để giúp học các bài thánh ca mới trong khi tập hát, từ lâu Giáo Hội đã cấm sử dụng bất kỳ hình thức âm nhạc nào được thu sẵn trong phụng vụ, và việc cấm này không cho phép sử dụng âm nhạc như thế trong thánh lễ.

Cuối cùng, một độc giả ở bang California, Mỹ, đưa ra vài nhận xét thú vị: "Mặc dù iPad và các phương tiện truyền thông điện tử khác đang ngày càng trở nên đáng tin cậy hơn và thân thiện với người sử dụng, khả năng xảy ra sự cố hoặc lỗi của người sử dụng thiết bị là có thực (tôi nghĩ về các vấn đề micro hú tại một số giáo xứ). Mặc dù các trường hợp này là các vấn đề có thể giải quyết được (pin không được sạc, nhấn sai phím điều khiển, giảm âm lượng), các vấn đề đòi hỏi sự chú ý và một sự đáp trả am hiểu và lanh lẹ. Tôi nghĩ rằng việc sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử trong phụng vụ công cộng sẽ có một sự xao lãng và rối trí, có lẽ là một sự xao lãng không phù hợp. Các ca trưởng sử dụng công nghệ chủ yếu là không có vấn đề, nhưng họ không cừ hành Thánh Lễ. Tôi là người mắt kém, nên may mắn sử dụng một iPad khi đi xa. Việc sử dụng một iPad sẽ giúp việc hát các bài thánh ca chưa quen thuộc, nhưng tôi cử hành Thánh lễ thuộc lòng. Tôi đọc trước các bài đọc ở nhà trước Thánh Lễ, trên màn hình máy tính chữ lớn. Do đó, khi tôi nghe các bài đọc trong Thánh Lễ, tôi có thể hiểu hoàn toàn. Xin lỗi cha vì tôi viết dài dóng, nhưng tôi muốn cha biết tôi đánh giá cao công nghệ biết bao trong việc phụng tự của tôi, nhưng tôi thấy nó có thể gây xao lãng".

Tôi cũng nghĩ vậy. Một linh mục mắt kém có thể sử dụng các thiết bị ấy để cử hành Thánh lễ, mặc dầu giáo luật có các giải pháp khác có sẵn (chẳng hạn như cho phép linh mục học thuộc lòng nghi thức một Thánh lễ, và cử hành Thánh lễ mỗi ngày với nghi thức ấy).

Một sự cho phép tổng quát về việc sử dụng thiết bị điện tử (chẳng hạn iPad) trong mọi trường hợp như vậy phải được cân nhắc cẩn thận. Như câu ngạn ngữ pháp lý nói "Trường hợp khó làm luật thành xấu", luật phụng vụ có nhiều sự cho phép trong các trường hợp đặc biệt, vốn được dần dần mở rộng vào sự áp dụng rộng rãi, hoặc thậm chí sự lạm dụng nữa. (Zenit.org 26-6-2012)
Tác giả bài viết: Nguyễn Trọng Đa chuyển ngữ Nguồn tin: Vietcatholic.org

CÓ THẬT LÀ PHẢI CHÌA MÁ NÀY NẾU BỊ VẢ MÁ KIA ?

Có thật là phải chìa má này nếu bị vả má kia? (Mt 5, 39)

 


“Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác,
trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” Mt 5,39



Một số đông người Kitô giáo lẫn ngoài Kitô giáo vẫn còn hiểu nhầm ý “chìa má khác” cho người trong đoạn Tin Mừng Matthêô 5,39 này.

Sự thật là Chúa Giêsu đang sử dụng một mánh giảng dạy thông thường của các thầy rabbi, lối nói “thậm xưng” để nhấn mạnh một điểm quan trọng. Ngài không có ý muốn nói câu ấy theo nghĩa đen, nghĩa mặt chữ. Thực tế, Chúa Giêsu cũng đã sử dụng lối nói này trong suốt Bài giảng trên núi. Một vài ví dụ khác thuộc lối nói này ngay trong Bài giảng trên núi:

1. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi … (Mt 5,29)

Bạn có thật sự nghĩ rằng Chúa Giêsu muốn chúng ta móc mắt ném đi không? Không! Ngài nói quá đi một chút để nhấn mạnh rằng chúng ta phải loại bỏ tất cả những chướng ngại để phục vụ Thiên Chúa.

2. … Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi … (Mt 5,30)

Có ai đi diễn thuyết hô hào mà lại khuyên người ta chặt cả tay nhân danh Chúa Giêsu?

3. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả … Nhưng hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không”… (Mt 5,34-37)

Chính Chúa Giêsu cũng tôn trọng lời buộc phải thề của vị Thượng Tế trong Mt 26,63: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi bắt ông thề phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không” (Trong sách Lêvi 5,1, chúng ta thấy có nói đến “lời thề tuyên thệ” mà vị Thượng Tế có quyền bắt ai đó phải thề để làm chứng). Nếu Chúa Giêsu dạy lời thề là bất hợp pháp và vô luân thì Ngài đã không trả lời, hoặc chống chế và nói rõ rằng mình không đồng ý với quan niệm về lời thề.

Thật sự ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây chính là lời thề không cần thiết đối với các tín hữu bởi vì tín hữu là phải trung thực. Tuy nhiên, vì sự dữ vẫn còn hiện diện hiện diện trong thế giới này nên lời thề vẫn còn cần thiết. Nhưng bạn không nên áp dụng ý nghĩa này cho những lời trong Mt chương 5 này.

4. … Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài … (Mt 5,40)

5. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi (Mt 5,42).

Bạn có thực sự tin rằng Chúa Giêsu có ý muốn nói chúng ta phải cho vay hay đưa tiền cho bất cứ ai xin? Nếu thế thì mọi kitô hữu sẽ phải phá sản hết và không nuôi nổi gia đình! Không! Ngài dùng lối nói thậm xưng để dạy rằng kitô hữu cần phải tỏ ra quảng đại.

6. … Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… (Mt 6,3-4)

Chúa Giêsu có thật sự muốn nói đừng để ai biết những gì mình đã cho?Thế tại sao Ngài lại khen bà góa nghèo đã cho trong Mc 12,42-43? Hoặc tại sao trong sách Cv chương 5 các tông đồ đã công khai số của cải dâng cúng khi Khanania và Saphira bị buộc tội nói dối về những gì họ thật sự dâng cúng? Như vậy là phải nói cho người ta biết những gì mình dâng cúng!

Thật sự ở đây Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng chúng ta nên cho vì tình yêu Thiên Chúa và vì tha nhân chứ không phải vì háo danh.

7. … Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo… (6:6)

Có thật Chúa Giêsu kết án việc cầu nguyện nơi công cộng? Nếu thế thì Ngài tự kết án mình rồi! Ngài đã từng cầu nguyện công khai ở vườn Giếtsêmani (Mc 14,32-42); Ngài cầu nguyện công khai khi làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết trong Ga 11,41-43. Các tông đồ cũng thường cầu nguyện công khai (xem Cv 1,24; 4,31; 6,6; 20,36, etc.).

Chúa Giêsu dùng lối nói thậm xưng ở đây có ý nhấn mạnh rằng việc cầu nguyện đừng bao giờ là một màn trình diễn để cho người ta trông thấy.

8. Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, … (Mt 6,19-20)

Chúa Giêsu kết án nhà băng và các tài khoản nhà băng sao? Điều này thật khó phù hợp với “dụ ngôn những yến bạc” của Chúa Giêsu trong Mt 25,27: “thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ!”

9. …đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao (Mt 6,25-26)?

10. Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! (Mt 6,28-30)?

Nếu ta cứ lý luận rằng câu “chìa má khác cho người” phải được hiểu theo nghĩa đen thì ta cũng phải cho rằng Chúa Giêsu kết án việc nhà nông hoặc ngay cả việc gieo hạt trong những câu này. Bọn chim chóc chúng nó chẳng làm gì cả mà Thiên Chúa chăm sóc chúng hết kia mà!

Chúa Giêsu cũng đã kết án việc may mặc. Thế chúng ta cứ trần truồng cả đi rồi Thiên Chúa sẽ mặc cho chúng ta chắc?

Thật là nực cười! Chúng ta đều biết rằng Thiên Chúa kết án việc lãng quên Thiên Chúa và sự Quan Phòng của Ngài trong tất cả những công việc này. Nếu chúng ta cứ hiểu một vài điều trong Bài giảng trên núi theo nghĩa đen thì tại sao không hiểu hết các điều khác chứ?

Kết luận

Toàn bộ Bài giảng trên núi có thể được tóm kết trong Mt 6,33: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.” Ý tưởng chính ở đây là Thiên Chúa phải ưu tiên trong mọi khía cạnh của đời sống chúng ta.

Khi chìa má khác cho người, Chúa Giêsu không bảo chúng ta phải nhu nhược hay chủ hòa. Thực tế, trong Lc 22,36-38, Ngài bảo các tông đồ hãy “tuốt gươm” để tự vệ.  Thực sự trong câu 50-51, Chúa Giêsu bảo Phêrô ném gươm đi thì cũng chỉ vì Phêrô manh động và làm trái ý Ngài. Ngài từng nói với các môn đệ rằng ý Thiên Chúa muốn Ngài phải đau khổ và phải chết (xem Lc 9,44; 18,32, etc.). Phêrô hành động trái với ý muốn mà Ngài đã mạc khải. Nhưng những lời này không phủ nhận sự kiện là Chúa Giêsu bảo Phêrô và các môn đệ hãy tuốt gươm để tự vệ.

Chúa Giêsu cũng ca ngợi lòng tin của viên đại đội trưởng Roma trong Mt 8,8tt. Không bao giờ Ngài nói rằng phục vụ trong quân đội là sai. Sự thật là với câu nói “hãy chìa má khác” cho người, Chúa Giêsu dùng lối nói thậm xưng để dạy chúng ta nên là những người kiến tạo hòa bình. Chúng ta luôn tìm kiếm hòa bình ngay cả khi có đôi lúc sự tự vệ và chiến tranh là điều cần thiết (xem Gv 3,3.8: “một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng”; “một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà”)

Tim Staples
Tác giả bài viết: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ Nguồn tin: Gpquinhon.org

HÔN NHÂN KITÔ GIÁO VÀ ĐÒI HỎI CỦA LỜI CAM KẾT

HÔN NHÂN KITÔ GIÁO VÀ ĐÒI HỎI CỦA LỜI CAM KẾT
(Thời sự Thần học - Số 1, tháng 03/2009)

 
Gioan Phê Ny Ngân Giang, OP

Có thể nói, vấn đề quan trọng mà gia đình Kitô giáo ngày hôm nay phải đối diện là gia đình đang chuyển dần từ bình diện tôn giáo sang bình diện con người. Điều đó có nghĩa là mối bận tâm chính của đôi hôn nhân không còn nằm ở vấn đề có hay không cùng một niềm tin tôn giáo; thay vào đó, họ phải trả lời cho vấn đề có hay không một nền tảng hôn nhân. Bởi lẽ sự khác biệt giới tính về mặt sinh học đáng ra phải có tầm quan trọng về mặt tự nhiên, nhưng dường như người ta dần cho rằng sự khác biệt ấy chỉ là sản phẩm của văn hoá mà mỗi người có thể thay đổi tuỳ quan niệm của mình. Nói khác đi, đó là sự chối bỏ, thậm chí phá huỷ chính định chế hôn nhân và gia đình, cách riêng đối với hôn nhân và gia đình Kitô giáo.[1]
 
Quả thật đó là một thứ nghịch lý của thời đại hôm nay. Vì lẽ, đang khi gia đình vẫn được xem là tế bào xã hội, cái nôi hình thành nhân cách con người và là trường học đầu tiên của nhân loại thì tổ chức gia đình hay việc cấu thành nên chính tế bào đầu tiên ấy lại đang có nguy cơ bị phá bỏ, nghĩa là gia đình không nhất thiết phải gồm có cha mẹ và con cái. Hiểu như thế thì gia đình không nhất thiết phải được xây dựng trên mối dây hôn phối. Vẫn có những đứa trẻ ra đời mà mẹ chúng không cần phải có người cha cho chúng. Hoặc có những gia đình mà nền tảng không đặt trên mối tương quan liên vị trong sự ràng buộc của dây hôn phối nên họ dễ dàng ly dị mà không nghĩ đến chuyện cứu vãn trong mọi khả năng.
 
Chúng ta bắt gặp ở đây hai trở ngại lớn. Thứ nhất, về mặt tiến triển của lịch sự nhân loại, rõ ràng, vấn đề hôn nhân một vợ một chồng chỉ mới được đặt thành vấn đề như một định chế mới đối với định chế cũ trong quá khứ. Vậy điều này có cho phép kết luận rằng dây hôn phối chẳng qua cũng chỉ là một thứ thủ tục không hơn không kém mà cùng với sự tiến bộ, con người thấy cần thiết cho sự phát triển nhận thức của mình? Chính đây là cơ sở cho lập luận phá bỏ nền tảng gia đình dựa trên tính thiết yếu của dây hôn phối. Vấn nạn của xã hội hiện đại, nhất là quan niệm về hạnh phúc và tự do trong việc quyết định xây dựng hay phá vỡ một “tế bào xã hội”, ở chỗ không ít người trẻ hôm nay cho rằng nền tảng để giải quyết vần đề hôn nhân và gia đình không gì khác hơn là việc tương đối hoá mọi ý nghĩa và định chế hầu giản lược tất cả thành một thứ tự do tuyệt đối qua việc tìm kiếm hạnh phúc của cá nhân. Đáp trả cho vấn đề này, chúng ta cùng tìm câu trả lời dưới góc độ Kinh thánh trong việc khám phá ý định của Thiên Chúa khi chính Người là Đấng đã tác hợp cho gia đình đầu tiên của nhân loại. Thứ hai, chúng ta sẽ trả lời cho vấn nạn về “sự bất khả phân ly” trong hôn nhân qua giáo huấn của Đức Giêsu về việc có cho phép ly dị hay không. Trên cơ sở đó, vượt xa hơn vấn đề tự nhiên để bước vào lãnh vực ân sủng, chúng ta cùng xác định lại nền tảng gia đình qua bí tích hôn phối. 
 
Cuối cùng, khi đặt gia đình trong viễn tượng của Nước Trời đang đến, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn thánh, nơi gìn giữ và nuôi dưỡng những nhân vị thánh tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa mà vì tình yêu Người đã để cho tình yêu được tiếp nối trên quả đất này.
 
1. Thách đố của Hôn nhân Kitô giáo thời hiện đại
 
Thế kỷ 20 vừa qua đánh dấu một sự thay đổi về bản chất và nhiệm vụ trong hôn nhân phương Tây. Hôn nhân không còn là nhiệm vụ xã hội, không phải tuân theo ý muốn cha mẹ, cưới trước yêu sau. Thay vào đó, hôn nhân là quyền lợi của cá nhân và khởi đi từ tình yêu của đôi hôn nhân. Kéo theo hôn nhân là sự thay đổi về bản chất và nhiệm vụ của gia đình. Thế chỗ cho những gia đình nhiều thế hệ là những gia đình hạt nhân. Gia đình thôi không còn là nền tảng của xã hội nữa nhưng chỉ là một đơn vị giữa bao đơn vị khác. Ngay cả việc giáo dục trong gia đình giờ đây cũng được chuyển sang cho xã hội.[2]
 
Một chuyển biến như thế không phải là không có trong bối cảnh hôn nhân gia đình Việt Nam. Lưu ý về vấn đề này, Hội Đồng Giám mục Việt Nam cho thấy:
 
…Có những gia đình đang trở thành một thứ quán trọ thay vì là tổ ấm yêu thương. Có nhiều người cao tuổi bị con cái bỏ rơi, không nơi nương tựa. Nạn bạo hành gia đình còn khá phổ biến, đặc biệt nhiều phụ nữ chưa được tôn trọng và yêu thương xứng đáng với phẩm giá con người. Tỷ lệ ly hôn ngày càng gia tăng và hậu quả là những trẻ em thất học, trẻ em bỏ nhà đi bụi đời ngày càng nhiều.[3]
 
Thông điệp Familiaris Consortio trong khi thấy được những tích cực về ý thức tự do cá nhân cũng như mối quan tâm nhiều hơn về tương quan liên vị trong hôn nhân thì đồng thời cũng cho thấy sự thoái hoá đáng lo ngại về một số giá trị căn bản. 
 
Một quan niệm sai lầm trên lý thuyết và thực hành về sự độc lập giữa hai vợ chồng với nhau…những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị như nhiều gia đình đã cảm nghiệm, con số các vụ ly dị gia tăng, vết thương về sự phá thai, việc dùng các phương pháp làm tuyệt đường sinh sản ngày càng nhiều, việc hình thành một não trạng đích thị là não trạng chống thụ thai.[4]
 
Một mối lo ngại thực tế của các Kitô hữu trong bối cảnh xã hội ngày hôm nay đó là việc thực hành đức tin của họ dường như cho thấy họ chỉ đang cố giữ lấy một thứ giáo lý hà khắc. Đang khi đó, những đổ vỡ hôn nhân lại không là vấn đề nằm ngoài đời sống của Kitô hữu. Sự phức tạp trong các cuộc hôn nhân mà một bên phối ngẫu không là Kitô giáo càng cho phép người ta thấy thuyết phục hơn khi muốn tách bạch rõ ràng giữa hôn phối theo đạo và đời. Hơn thế nữa, việc tái hôn là một trong những vấn nạn đối với đôi hôn nhân Kitô giáo đã ly thân. Thế nên, việc “rối đạo” là nỗi sợ hãi hơn là lời cảnh báo giúp người tín hữu một lần hồi tâm cứu vãn tình trạng hôn nhân của mình. Não trạng này đang dần lớn lên và cho thấy ảnh hưởng không nhỏ của nó đối với nhận thức về tình yêu, hôn nhân và gia đình nơi thế hệ trẻ. Thông điệp, một lần nữa nêu lên rằng: 
 
Sự lan tràn của nạn ly dị và ngay cả các tín hữu cũng đòi được tái hôn sau khi ly thân; về quan niệm chỉ chấp nhận cử hành hôn phối theo phần đời, ngược hẳn ơn gọi của những người đã được rửa tội là “lấy nhau trong Chúa”; về việc cử hành bí tích Hôn phối mà không có đức tin sống động, nhưng chỉ vì những lý do khác; về sự phủ nhận những nguyên tắc luân lý đang soi sáng và nâng đỡ việc thực hành tính dục trong hôn nhân một cách nhân bản và Kitô giáo.[5]
 
Trên bình diện thần học, những cuộc tranh luận lịch sử đã cho thấy có thời người ta muốn tách rời giữa khế ước và bí tích vì cho rằng điều này không thuộc về chân lý đức tin.[6] Lịch sử Hôn nhân Công giáo đã từng trải qua những cuộc tranh luận về tính bí tích và khế ước của hôn nhân Công giáo. Trong quyển Doors to the Sacred, Joseph Mortos đã nêu lên quan điểm của Luther về vấn đề này. Theo ông, Luther cho rằng hôn nhân do Chúa thiết lập nhưng không phải là bí tích, mà đúng hơn đó là một định chế tự nhiên và xã hội nên thuộc về luật tự nhiên và dân sự chứ không thuộc luật Giáo Hội.[7]
 
Ngày nay, không thiếu những lập luận theo những nguyên tắc tương đối hay theo một thứ luân lý hoàn cảnh nào đó để cho thấy rằng một đòi buộc về hôn nhân như là giao ước tình yêu, đồng nhất và bất khả phân ly là điều quá khắt khe và không có nền tảng thực tế. Rõ ràng, khi mà cuộc sống hiện đại càng ngày càng cho thấy người ta khó có thể áp dụng một quy tắc tổng quát nào đó cho tất cả mọi người trong những hoàn cảnh cá biệt cụ thể của họ thì việc xem hôn nhân là bất khả phân ly dường như trói buộc tự do con người trong việc mưu cầu hạnh phúc chính đáng. Hôn nhân giờ đây được coi chủ yếu là một cách diễn tả tình yêu của hai người nam nữ. Tiến xa hơn nữa, vấn đề được đặt lại trong tính cách nền tảng của hôn nhân khi mà lối nhìn về sự ràng buộc hôn nhân là một hữu thể siêu hình đang bị thay thế dần bởi cái nhìn mang tính nhân vị hơn trong hôn nhân. Hơn thế, phải chăng đang khi lập luận về tính bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên việc diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh thì cuộc hôn nhân ấy bao giờ cũng mang tính bí tích và vĩnh viễn vì tình yêu trong cuộc hôn nhân ấy phải là tình yêu thuỷ chung, tha thứ và tự hiến; nhưng một khi cuộc hôn nhân không còn thể hiện và diễn tả được tình yêu như thế thì thực tế tính bí tích không còn nữa nơi hôn nhân ấy và có thể được kết thúc bằng việc ly dị? Và thật nan giải khi thực tế lại cho thấy rằng việc bất khả phân ly của hôn nhân không làm cho người Kitô giáo e sợ vấn đề ly dị, thay vào đó dường như nó ngăn cản không cho người ta hiệp thông với Hội thánh.[8] Phải nghĩ suy xem vấn đề sẽ tiến xa thêm đến mức nào, cha Raniero Cantalamessa, OFM., vị giảng thuyết của Phủ Giáo Hoàng, qua cuộc phỏng vấn của thông tấn xã Zenit, đã nói về việc cứu thoát gia đình khỏi một tiến trình “tan rã” đi ngược lại bản chất Kitô giáo: đó là việc thoát khỏi hoàn cảnh quá khích đưa đến kết quả “phi nhân” qua chính việc muốn bải bỏ nền tảng giới tính của con người.[9]
 
Như vậy, vấn đề của hôn nhân Kitô giáo có thể nói không phải là tìm ra một phán quyết mang tính luật lệ như lịch sử đã cho thấy, nhưng là làm sao để chính mỗi đôi hôn nhân, khi tự do tiến đến với nhau qua lời cam kết, ý thức đủ rằng họ đang bước vào một đời sống mới mà đức tin cho biết lời cam kết ấy là hoàn toàn khả tín và không có gì có thể phá vỡ được. Chỉ trong ý nghĩa đó, cái nhìn quân bình về nền tảng hôn nhân mới làm sáng lên những vấn đề về phẩm tính của tình yêu, tình dục và sự sinh sản con cái … mà những não trạng quá đề cao tự do cá nhân hay tuyệt đối hoá một thứ tình yêu ích kỷ đã làm chệch hướng chọn lựa của con người.[10]
 
2. Nền tảng bất khả phân ly của Hôn nhân Kitô giáo
 
Chỉ có thể trả lời cho vấn đề này một khi chúng ta phải thành thật thừa nhận rằng giá trị của lời cam kết mà đôi hôn nhân một khi hoàn toàn tự do ưng thuận để công khai nói lên như một hành vi nhân linh thì hoàn toàn mang tính khả tín trong chính bản chất của nó. Bởi lẽ, nếu chúng ta phủ nhận sự khả tín mà chính chúng ta đã tự do nói lên ấy thì không thể là hành vi của chủ thể tự do. Điều mâu thuẫn ấy tố cáo chính chúng ta. Tuy nhiên, một khi xác tín vào sự khả tín, chúng ta được mời gọi khám phá nền tảng của chính sự khả tín ấy, một nền tảng đảm bảo cho sự bền vững trước những thay đổi mà chúng ta không thể dự liệu một khi dấn thân vào chính lời cam kết của chúng ta.[11]
 
a. Cựu Ước
 
Bản văn Sáng thế mà Đức Giêsu đã từng trưng dẫn làm chúng ta phải suy nghĩ nhiều về nền tảng hôn nhân trong lịch sử Dothái mà Thánh Kinh Cựu Ước ghi lại. 
 
Sách Sáng thế đã viết về cuộc tạo dựng và hôn nhân của đôi vợ chồng đầu tiên như thế này: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2,24). Bản văn được ghi chép trong chính bối cảnh của văn hoá Dothái, một nền văn hoá mang nặng tính phụ hệ trong hôn nhân, nghĩa là người đàn ông sau khi lập gia đình vẫn tiếp tục sống gần nhà cha mẹ mình. Chỉ có người vợ là phải rời bỏ nhà mình mà đến sống với chồng. Nhưng ở đây, bản văn cho chúng ta biết, người đàn ông lại lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Việc lìa bỏ không được hiểu mang tính tuyệt đối như bỏ rơi hay đoạn tuyệt. Trái lại, lối diễn tả ấy cho thấy từ đây trong cuộc đời người chồng đã có một sự thay đổi trật tự các ưu tiên. Trước đây, ưu tiên hàng đầu đối với anh là cha mẹ. Nay, thứ tự ấy được chuyển sang cho người vợ. Có lẽ, cuộc sống hiện đại làm cho chúng ta khó hình dung ra sự thay đổi ấn tượng này, bởi lẽ trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ trong xã hội hiện đại thường bị lãng quên. Trái lại, trong xã hội Dothái xưa, tôn kính cha mẹ là điều bắt buộc đối với con cái và việc “thờ cha kính mẹ” chỉ xếp sau việc thờ phượng Thiên Chúa mà thôi. Bởi thế, sự lìa bỏ này quả thật bất ngờ khiến chúng ta phải chú ý, nhất là hành động ấy lại khởi đi từ một cuộc hôn nhân.[12]
 
Tiếp sau sự lìa bỏ này, sách Sáng thế thuật lại rằng người đàn ông trở nên gắn bó với vợ mình. Điều này gợi lên tình yêu và sự bền vững như là hai đặc tính của hôn nhân. Đó là sự quyến luyến và gắn bó của đôi vợ chồng như thể con cái Israen gắn bó với gia nghiệp của mình (xc. Ds 36,7.9), như sự thúc bách của lòng yêu mến mà Isaraen phải có với Đức Chúa của họ (Đnl 10,20; 11,22; 13,5…). Việc lìa bỏ cha mẹ và nên gắn bó với nhau của đôi vợ chồng dẫn chúng ta đến cái nhìn về hôn nhân như một giao ước mà chính Israen đã có kinh nghiệm về giao ước Thiên Chúa đã lập với họ.[13]
 
Tuy bản văn Sáng thế không cho chúng ta thấy chứng thực về chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Nhưng một kinh nghiệm xương máu mà các ngôn sứ thời xưa đã rút ra đó là sự trừng phạt đến từ việc dân được tuyển chọn không sống đúng với ơn gọi của họ. Lẽ ra, họ phải là dân sống thánh thiện với những chuẩn mực cao về luân lý và đạo đức; họ phải nêu gương bác ái công bình với đồng loại và không được chạy theo các thần ngoại bang. Chính thực tế không như mong muốn ấy mà các ngôn sứ đã lấy tình yêu thuỷ chung giữa hai vợ chồng làm lý tưởng cho nền luân lý hôn nhân, một trong những nét của nền luân lý mới mà họ rao giảng nhằm đề cao tấm lòng son sắt mà Iarael phải có với Giavê là Chúa của họ, Đấng hằng trung tín và không bỏ rơi dân bao giờ.[14]
 
Như vậy, dòng lịch sử của Cựu Ước mặc dù cho thấy sự “trơn trượt” về một tình yêu hôn nhân bất khả phân ly, nhưng như Đức Giêsu đã nói, sự trơn trượt ấy không nằm trong ý định của Thiên Chúa bởi từ ban đầu thì không có chuyện phân ly trong hôn nhân. Chúng ta chỉ mới thoáng thấy được điều này qua lối diễn tả của các ngôn sứ về một tình yêu chung thuỷ như ước mơ và cũng là khẳng định mang tính đòi buộc Dân Thiên Chúa phải sống theo đường lối của Người.
 
b. Tân Ước
 
Viễn tượng của Hôn nhân Kitô giáo không đơn thuần chỉ là cuộc giao duyên giữa người nam với người nữ, nhưng là một tình yêu được se kết bởi chính lựa chọn nên một với nhau trong Đấng Tạo Thành của đôi hôn nhân. Mặc cho những đỗ vỡ, như đã bao lần xảy ra khi Dân phản bội Thiên Chúa, thì tự bản chất Người vẫn là Đấng tín trung, Người không bao giờ bội tín vì Người không thể phản bội chính mình.[15]
 
Giáo huấn của Đức Giêsu về một lời cam kết bất khả phân ly đụng chạm đến thực tế hầu như tan vỡ bởi nạn ly dị của ngày hôm nay như thế nào? Phải chăng lời rao giảng của Đức Giêsu có phần không thực tế đang khi có biết bao người phải gánh chịu đau khổ, dằn vặt trong gia đình mà chính họ là người trải nghiệm mỗi ngày? Tân Ước cho thấy tranh luận thú vị giữa Đức Giêsu với những người luật sĩ về vấn đề ly dị. Có thể xem đây là giáo huấn nền tảng của Đức Giêsu cho những suy tư về sự bất khả phân ly của dây hôn phối.
 
Chúng ta gặp phải vấn đề là liệu rằng trước những thực trạng khủng hoảng, bế tắc và tan vỡ của nhiều cuộc hôn nhân có làm chúng ta mất hy vọng về đời sống gia đình, về nền tảng làm nên đời sống gia đình và ơn gọi trở thành những bậc làm cha, mẹ trong những định chế gia đình đúng nghĩa? Đức Giêsu đã nói đến lý tưởng ấy. Có hai thái độ trước giáo huấn của Đức Giêsu. Một đàng cho là Đức Giêsu đã quá lý tưởng cuộc sống lứa đôi vốn “không ai có thể biết trước được”. Vì thế, sự bất khả phân ly của Kitô giáo là một ràng buộc nghiệt ngã. Đàng khác lại cho rằng “không vì con sâu làm rầu nồi canh”, nghĩa là dù trước những thực trạng xem ra không mấy sáng sủa thì hôn nhân vẫn không bị đánh mất ý nghĩa nền tảng vốn có. Bởi vì, lời mời gọi sinh sôi này nở và làm chủ vũ trụ vốn nằm trong ơn gọi làm người mà tự do con người chỉ có thể lựa chọn chứ không có quyền phá huỷ. Lời Đức Giêsu cho phép chúng ta tin tưởng vào giá trị của lời cam kết, bởi đó là sự kết ước không phải chỉ bởi hai ngôi vị nhân loại với nhau, nhưng giữa họ có Đấng làm chủ và gìn giữ đời sống ấy. Truyền thống Kinh thánh gợi lại cho chúng ta lòng trung tín của Thiên Chúa như là nỗ lực gìn giữ mối dây kết ước giữa Người với thụ tạo.
 
Rõ ràng, tuy có sự khác nhau giữa các bản văn của Mátthêu, Máccô và Luca về cùng một vấn đề ly dị, nhưng điều sau cùng mà chúng ta nhận được từ giáo huấn của Đức Giêsu đó là lý tưởng về một cuộc hôn nhân hoàn hảo như là nguyên tắc của lời đáp trả cho bất ai muốn theo Người. Điều này cũng được đọc thấy trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô chương 7. Đặc biệt trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, thánh Phaolô đã thấy tương quan giữa đôi vợ chồng trong hôn nhân giống như tương quan thiêng liêng giữa Đức Kitô và Hội thánh. Tiêu chuẩn của thánh Phaolô về hôn nhân còn được thấy lại trong thư thứ nhất của thánh Phêrô tông đồ (1 Pr 3,1-7). Thật ra toàn bộ những tiêu chuẩn hôn nhân này không thể là chuyện có một thiên luật về hôn nhân trói buộc và tước mất tự do của những ai đã vì tình yêu và sự trung tín mà vẫn bị phản bội và gặp thử thách mọi bề. Đúng hơn, đó là một lời mời gọi nên hoàn thiện mỗi ngày trong giáo huấn của Đức Giêsu làm thức tỉnh đối với những ai đã đánh mất sự khả tín vào những lời cam kết của mình. Lời cam kết không phải là sợi dây “thòng lọng” khiến những ai đã vướng vào thì càng thêm dính chặt ở đấy. Trái lại, nếu ngay cả sự khả tín vào chính những gì một người có thể đoan quyết cũng bị phủ định thì người ta thật sự phủ định toàn bộ cuộc sống này.[16]
 
Thế nên, điều khả tín của kẻ có niềm tin là thấy được “thế giới này đang qua đi” (1 Cr 7,31) mà những thực tại của trần gian này chỉ là dấu chỉ cho thực tại vĩnh cửu mai sau. Bởi thế, đối với thánh Augustinô, hôn nhân là một sacramentum theo hai lối. Trước hết, đó là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa Đức Kitô và Hội thánh, sau là lời thề thánh thiêng giữa đôi vợ chồng, là sợi dây chung thuỷ ràng buộc hai người cho đến chết. Sacramentum như dấu ấn ghi vào linh hồn của hai vợ chồng và hằng luôn liên kết họ. Thế nên, chính nhờ sự hiệp nhất vĩnh viễn này nơi họ mà hôn nhân trở thành biểu tượng phản ánh sự hiệp nhất của Đức Kitô với Hội thánh. Bởi thế, hôn nhân Kitô giáo cũng như các bí tích khác là một sacramentum tức là một dấu chỉ thánh thiêng và một sacramentum et res tức là một thực tại bí tích và một ân sủng đích thực được ban qua nghi thức ấy.[17]
 
Tóm lại, sứ điệp mà Tân Ước gửi đến chúng ta về vấn đề hôn nhân có thể được hiểu qua hai điều sau đây. Trước hết, việc diễn tả mối tương quan và kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh Người cho thấy chiều kích thần học sâu xa của hôn nhân. Bởi thế, hôn nhân phải làm sao diễn tả như lòng mến giữa Đức Kitô và Hội thánh không bao giờ phai nhạt. Điều này hàm chứa sự yêu thương, trung tín, dấn thân cho nhau của đôi vợ chồng. Như vậy, không phải là hôn nhân trở nên kiểu mẫu làm chuẩn mực cho Hội thánh, nhưng chính tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh, nhất là qua cái chết của Người trên thập giá, diễn tả và thực tại hoá lý tưởng của hôn nhân. Hơn thế nữa, qua ấn tích vĩnh viễn của bí tích Thánh Tẩy, đôi hôn nhân được thông phần ơn cứu độ mà Đức Kitô ban cho Hội thánh, làm hoàn trọn bí tích Hôn phối mà họ lãnh nhận như việc thể hiện tình yêu nên một trong nhau và trong chính Đấng đã chết và sống lại vì họ.
 
Một vấn đề khác của sứ điệp Tân Ước đó là sự bất khả phân ly của dây hôn phối và qui định lề luật. Chúng ta thường đồng hoá lời cam kết hôn nhân với lề luật cấm không được ly dị mà Tin mừng theo thánh Mátthêu chương 19,1-9 nói đến. Lệnh truyền của Đức Giêsu về sự bất khả phân ly trong hôn nhân thường được xem là lời dạy mang tính “chung cuộc” của một giới luật hơn là đích điểm hay lý tưởng phải đạt đến. Tuy nhiên, vượt qua những cấm đoán mang tính luật lệ ấy, việc cấm ly dị của Đức Giêsu cho thấy một trật tự sáng tạo trong ý định của Thiên Chúa. Không có giới luật nào phát xuất từ bí tích nhưng là chính lý tưởng hôn nhân tự đặt cho mình sự bất khả phân ly theo đúng công trình tạo dựng ban đầu của Đấng Tạo Hoá. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn cho thấy, vì lòng người ta ra chai đá mà ý nghĩa nền tảng của hôn nhân bị lu mờ trước những thực trạng “trượt dốc” của họ. Thật ra không thể có hôn nhân nếu không có tình yêu là nền tảng liên kết người nam và người nữ. Trong tình yêu ấy, người ta không tìm thấy kẻ trên người dưới, không có chuyện bên trọng bên khinh bởi lẽ đã có một mối tương quan thật sự, nền tảng và vững bền giữa hai ngôi vị. Mối tương quan liên vị này được nhìn nhận và bảo đảm giữa hai người phối ngẫu, trong ý định sáng tạo của Thiên Chúa nên chẳng bao giờ là chuyện đòi hỏi của lề luật cả.
 
3. Tìm lại ý nghĩa của Hôn nhân Kitô giáo hiện nay
 
Thật ra, không phải chỉ Hôn nhân Kitô giáo mới cần tìm một hướng giải quyết về mặt ý nghĩa, nhưng cần hiểu hôn nhân trên tầm mức rộng hơn. Việc Đức Giêsu trích dẫn sách Sáng thế về cuộc sáng tạo và sự ra đời của gia đình đầu tiên có thể được hiểu như là lý tưởng chung của hôn nhân đối với bất kỳ ai lựa chọn cho mình “một lối sống mới” (họ không còn là hai nhưng là một xương một thịt với nhau). Chúng ta có thể đọc thấy những chuyển biến tích cực mà Công đồng Vaticanô II nhìn về hôn nhân như việc tìm lại ý nghĩa của đời sống vợ chồng đối với những ai quý trọng và muốn bảo vệ giá trị bất khả phân ly này nơi bí tích hôn nhân.
 
a. Công đồng Vaticanô II
 
Trong hiến chế Gaudium et Spes bên cạnh việc tái khẳng định bản chất của bí tích hôn nhân và tình yêu vợ chồng là tự bản chất hướng đến việc sinh sản và giáo dục con cái,[18] công đồng cũng nhấn mạnh rằng tình yêu vợ chồng không những là đặc điểm riêng nơi con người mà còn đem lại sự thiện hảo cho con người toàn diện. Tình yêu này được diễn tả và hoàn thiện qua việc vợ chồng vì quan hệ giới tính biểu lộ và nâng cao sự tự hiến của hai người, nhờ thế họ làm cho đời sống của nhau nên phong phú.[19] Bởi thế, bí tích hôn nhân trong Kitô giáo củng cố và hiến thánh các đôi hôn phối trong nhiệm vụ và phẩm giá của họ. Bí tích ấy là bí tích của sự nên một trong tình yêu, trong sự sinh sản con cái hầu để tinh thần Chúa Kitô được thấm đượm và nối kết họ trong mối dây liên kết vốn bất khả phân ly trong chính bí tích mà họ cử hành, bí tích diễn tả mối tình thiêng liêng cao đẹp Đức Kitô dành cho Hội thánh Người. Thế nên, vì sự hiệp nhất và trao hiến trọn vẹn cho nhau trong tình yêu và hạnh phúc của con cái mà đôi vợ chồng phải vẹn nghĩa thuỷ chung với nhau, nghĩa là một sự hiệp nhất bất khả phân ly.[20]
 
b. Những suy tư khác
 
Một điều đáng suy nghĩ đó là thực trạng đổ vỡ đời sống hôn nhân hôm nay không loại trừ những người đã sống đời hôn nhân như một bí tích. Đáng nghĩ hơn nữa khi chính những người Công giáo trong tình trạng ly thân này lại muốn được tái hôn theo luật đời. Có lẽ một lối thực hành nặng tính lề luật khi chỉ xem sự bất khả phân ly như một luật cấm khiến cho việc lãnh nhận và sống bí tích hôn nhân không đạt đến được mức độ trưởng thành và cắm rễ sâu nơi chính nội tâm của mỗi Kitô hữu. Bên cạnh đó, cùng với những trào lưu hiện sinh và tương đối, người Kitô hữu dễ bị cuốn trôi khỏi nền tảng thiêng liêng mà đời sống họ đã không có cơ hội được cảm nếm vì những rào cản mang tính luân lý và lề luật. Việc giải quyết các nố hôn nhân bởi thế trước hết là sự cố gắng chữa lành những thương tích mà đời sống bất toàn, không như ý muốn đã để lại trên ký ức và chính cuộc sống hiện tại của các đôi vợ chồng. Người ta có thể nghĩ đến đặc ân của thánh Phaolô như phương cách cuối cùng đối với những trường hợp bất khả kháng.
 
Thế nên, trước hoàn cảnh sống mới, một đòi hỏi nền tảng hơn cho đời sống Kitô hữu chính là việc thực hành đức tin của mình. Luật dân sự đã đạt được điều mà những người không có đức tin đòi hỏi: đó là sự đề cao tự do cá nhân bằng việc chấp thuận và nhìn nhận ly dị. Tuy nhiên, hơn lúc nào hết, một chứng từ cần thiết và công khai của mọi tín hữu là việc tái khẳng định phẩm giá và giá trị bất khả chuyển nhượng của gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân giữa một người nam và người nữ, cũng như sự khai mở sự sống và bảo vệ sự sống ở môi trường gia đình trong mọi giai đoạn phát triển của chính sự sống ấy.[21] Phải trả lời ra sao cho câu hỏi mà thời đại hôm nay đặt ra: đâu là sự thánh thiêng mà đời sống hôn nhân là cửa ngõ dẫn vào đang khi có biết bao khủng hoảng về chính điều mà ta gọi là sự thánh thiêng ấy?
 
Trải qua thời Trung cổ, đến thời cải cách của công đồng Trentô và vẫn đang tiến triển cho đến nay, hôn nhân luôn là một bí tích theo nghĩa rộng. Ta không thể nói việc cử hành nghi thức hôn phối chỉ như là một thủ tục kết hôn không hơn không kém. Trái lại, xét cho đến tận căn, đó là cuộc cử hành các giá trị thánh thiêng của hôn nhân, bất kể mọi cách hiểu trong những nền văn hoá đặc thù. Bởi lẽ, đó là cuộc cử hành nghi lễ để gia nhập vào một đời sống mới. Đặc biệt, chính trong môi trường Kitô giáo mà cuộc cử hành mang tính bí tích ấy đưa người nam và người nữ bước vào một lối sống mới được đặt nền trên mối tương quan khuôn mẫu là Đức Kitô và Hội thánh.[22] Thế nên, việc sống bí tích hôn nhân của các đôi vợ chồng Kitô hữu không những là việc sống thực tại thánh thiêng trong ý định Đấng Sáng Tạo, mà họ còn cùng nhau cảm nghiệm thế nào là tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội thánh, một tình yêu không phủ lấp mọi thực tại lữ hành khác của trần thế nhưng lại được thể hiện bằng chính sự đồng hành, liên luỵ, nên một và mang lấy gánh nặng cho nhau trong mỗi biến cố cuộc đời.[23]
 
------------------
[1] Hội đồng Tòa thánh về Gia đình, Giáo lý cho cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI – Đề tài 2: Gia đình, Nhà giáo dục sự thật về con người: Hôn nhân và Gia đình, số 1 (Mexico, D.F.,16-18/01/2009). 
[2] Joseph Mortos, Doors to the Sacred (USA: Liguori/Triumph, 1991), tr. 344-387. 
[3] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư mục vụ 2008 về Môi trường Giáo dục Gia đình Công giáo, phần II, số 10. 
[4] Familiaris Consortio (FC), số 6. 
[5] FC, số 7. 
[6] Xc. Thời sự Thần học, số 9, tháng 09/1997, tr. 7-65. Cũng xem Phan Tấn Thành, Thần học về Hôn nhân và Gia đình. Truy cập ngày 02/03/2009; http://www.daminhvn.com. 
[7] Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387. 
[8] Ibid., tr. 344-387. 
[9] Chúng ta đang ở trong các hoàn cảnh quá khích. Đó như thể chúng ta muốn phát minh lại con người, hôn nhân…với những kết quả “phi nhân” (in-humains). Chẳng hạn, kế hoạch bãi bỏ giới tính, nơi mà hẳn sẽ không có căn tính giới tính xác định, nhưng là nơi mỗi người có thể xây dụng cuộc sống của mình tùy theo ước muốn nam tính, nữ tính riêng của mình hay cái gì đó khả biến hơn. Điều này là không thể chấp nhận được, trái với bản tính của con người. Một tiến trình “tan rã” chẳng hạn có thể là việc đề nghị bãi bỏ mẫu tính, đồng hóa nó với một hành vi nô lệ. Phụ nữ là nô lệ của mẫu tính, và đó là lý do mà người ta đã tìm ra cách thế làm sinh ra những đứa trẻ một cách khác, theo cách nhân tạo hơn. Đó là kiểu đề nghị thực sự nguy hiểm, “phi nhân”. Tôi tin vào lương tri của con người và bản năng của họ : vào ước muốn giới tính đối lập mà Thiên Chúa đã gieo vào trong con người, và vào ước muốn làm mẹ và làm cha, là những giá trị mà Thiên Chúa đã đặt trong tâm hồn con người. Nhưng tôi nghĩ rằng những đề nghị này có thể tạo nên nhiều thiệt hại, như đó đã là trường hợp đối với chủ nghĩa mác-xít. Chủ nghĩa mác-xít đã được thừa nhận như là môt sự dữ to lớn cho xã hội, đã tạo ra nhiều nạn nhân. Cũng thế, cuộc tiến hóa này (sự tiến hóa của giống), ngay cả trước khi được thừa nhận như là “phi nhân”, sẽ có thời gian gây ra những thiệt hại ghê gớm. Truy cập 02/03/2009; http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/02/17/cuu-gia-dinh-thoat-khoi-tien-trinh-tan-ra/
[10] Nhưng công trình giáo dục này xem ra bị cản trở bởi một quan niệm giả trá về tự do, trong đó sự bốc đồng và những xung năng chủ quan của cá nhân được người ta tôn vinh đến mức nhốt kín con người trong ngục tù của bản ngã mình. Tự do đích thực của con người xuất phát từ chỗ con người đã được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa, và do đó tự do ấy phải được thực thi với trách nhiệm, luôn chọn điều thiện chân thực, để nó trở nên tình yêu, sự tự hiến. Với mục đích đó, điều cần thiết không phải là lí thuyết nhưng là sự gần gũi và yêu thương, đặc trưng của cộng đoàn gia đình. Chính trong tổ ấm gia đình mà người ta thật sự học sống, học biết quí trọng sự sống và sức khỏe, tự do và hòa bình, công lí và sự thật, lao động, sự hòa thuận và kính trọng nhau. (Thông điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI Kết thúc cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI tại Mêhicô, số 3). 
[11] Xc. Thời sự Thần học, số 32, tháng 06/2003, tr. 7-90. 
[12] Wenham, Gordon J., Word Biblical Commentary, Volume 1: Genesis 1-15, (Dallas, Texas: Word Books, Publisher, 1998). Cũng xem GLHTCG, số 1609-1611. 
[13] Ibid. 
[14] Các bản văn của Ez 16, Hs 1-3, sách Diễm Ca, sách Tôbia 6-8 đều diễn tả quan hệ giữa Israel và Giavê như một cuộc hôn nhân. Trong đó, Israel như người vợ trắc nết, bất trung, hết lần này đến lần khác đã phản bội chồng mình mà chạy theo người tình khác là các thần ngoại. Song song đó, việc đề cao và ca tụng những cuộc hôn nhân hoàn hảo trong đó người đàn ông hoàn toàn gắn bó với vợ mình trong tình yêu. Xem thêm Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387. 
[15] Linh mục Jude Siciliano, OP, trong bài suy niệm Lời Chúa vào Chúa Nhật 27 Thường niên B (VietCatholic News 02/10/2003) đã diễn tả điều này như sau: “Trong bài Phúc âm Chúa Giêsu nhắc lại truyền thống nhiệm màu của Kinh Thánh mà tuyên bố mối ràng buộc hôn nhân là không tháo gỡ được. Nó là dấu chỉ hữu hình tình yêu vô hình và hiệu quả của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài khẳng định tính bền vững của hôn nhân. Nó có ý nghĩa vượt xa sự kết hiệp giới tính. Nó không phải chỉ liên quan đến thân xác mà còn bao hàm toàn thể nhân sinh. Đôi vợ chồng là một về xác thịt và cũng là một về hiện hữu (une seule chair, un seul être). Vì thế, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Rõ ràng ông Adam không có cha mẹ để lìa bỏ. Lời tuyên bố của Sách Thánh nhắm đến toàn thể nhân loại. Tác giả muốn gọi sự kết hợp này là thuộc về “trái tim”, phát xuất từ trái tim, nơi thẳm sâu nhất của tồn tại con người. Hôn nhân, do đó, là sự dấn thân của hai trái tim giống như tình yêu trung tín (hesed) của Đức Chúa Trời. Lòng thương yêu này vượt trên cả tội lỗi và nết xấu của mỗi người. Tức là trung tín trong bất cứ tình huống nào. Vì Thiên Chúa không thể bất trung với chính Ngài. Lời thề trong lễ hôn phối của đôi vợ chồng mới là: “giữ lòng chung thuỷ khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ” vang vọng tình yêu hesed của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta phải đáp trả cho cân xứng. Nghĩa là trung tín với Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào, thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, khoẻ mạnh cũng như khi yếu đau. Đừng bao giờ lãng quên giao ước giữa ta với Đức Chúa Trời. Xem thêm Dives in Misericordia (Encyclical on the Mercy of God His Holiness Pope John Paul II, November 30, 1980). Truy cập ngày 02/03/2009; http://www.kimnam.btinternet.co.uk/giadinh/index.htm
[16] Joseph Mortos, op.cit., tr. 344-387. Cũng xem Freedman, David Noel, ed., The Anchor Bible Dictionary (New York: Doubleday 1997, 1992), “Divorce”; GLHTCG, số 1612-1617. 
[17] Joseph Mortos, op.cit., tr. 368-369. 
[18] Gaudium et Spes (GS), số 8. 
[19] GS, số 49. 
[20] Lumen Gentium, số 11. Xem thêm Hội đồng Tòa thánh về Gia đình, Giáo lý cho cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI – Đề tài 4: Gia đình, người thông truyền các đức tính và giá trị con người, số 1 (Mexico, D.F.,16-18/01/2009) : Gia đình, khai sinh từ sự hiệp thông trong đời sống thân mật và tình yêu vợ chồng vốn được đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, là nơi khởi đầu cho các quan hệ liên vị; gia đình là nền tảng của đời sống con người và là nguyên mẫu của mọi tổ chức xã hội. Chiếc nôi sự sống và tình yêu này là nơi xứng hợp cho con người sinh ra và lớn lên, đón nhận những khái niệm đầu tiên về sự thật và sự thiện, nơi con người học yêu và được yêu, và học biết nhân vị nghĩa là gì. Gia đình là cộng đồng tự nhiên trong đó người ta có được những kinh nghiệm đầu tiên và thực hành đầu tiên về xã hội loài người, bởi lẽ đó không chỉ là nơi con người khám phá tương quan liên vị giữa cái “tôi” và “bạn” mà còn mở đường ra cho cái “chúng ta” nữa. Người nam và người nữ hiến thân cho nhau trong hôn nhân tạo nên một môi sinh cho đứa bé có thể phát triển những tiềm năng của nó, ý thức phẩm giá của nó, giúp nó chuẩn bị để sẵn sàng đối diện với định mệnh của nó, một định mệnh độc nhất vô nhị. Trong môi sinh đầy ắp tình cảm tự nhiên đó liên kết các thành viên gia đình lại với nhau, mỗi con người với sự độc đáo của mình phải được nhìn nhận và nhận lấy trách nhiệm. 
[21] Thông điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI Kết thúc cuộc hội ngộ các gia đình thế giới lần thứ VI tại Mêhicô, số 4. 
[22] Joseph Mortos, op.cit., tr. 386-387. 
[23] GLHTCG, số 1638-1654.
 
Tác giả bài viết: Gioan Phê Ny Ngân Giang, OP Nguồn tin: tsthdm.blogspot.com