BÀI GIẢNG CHÚA THĂNG THIÊN - A

BÀI GIẢNG CHÚA THĂNG THIÊN NĂM A
(Cv 1,1-11     Ep 1,17-23      Mt 28,16-20)
 
Phó tế G.B. Trần Phan Thái Bình
 
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ! Hôm nay, Giáo Hội Công Giáo chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên. Các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy rõ hai vấn đề chính:
-         Thứ nhất: Chúa Giêsu Lên Trời là như thế nào.
-         Thứ hai: Chúa Giêsu vẫn hiện diện ở giữa chúng ta.
Kính thưa cộng đoàn, hai chử Thăng Thiên gợi cho chúng ta nghĩ ngay đến việc Ngài Lên Trời. Đối với đức tin của chúng ta, Trời không phải là một địa điểm, một nơi chốn hữu hình như cách nghĩ của dân gian. Nhưng, Trời là vương quốc vĩnh cửu, nơi Thiên Chúa cư ngụ, nơi đó không bị chi phối, bị giới hạn bởi không gian và thời gian.
Biến cố Chúa Giêsu lên Trời hay nói đúng hơn là Chúa đi về Trời, là về nơi Ngài đã phát xuất. Ngài đã một lần nhập thể, mang thân xác bằng xương bằng thịt như con người. Nhưng giờ đây, Chúa Giêsu trở về nơi mà Ngài thực sư thuộc về đó. Có nghĩa là Ngài được biến đổi trở nên tình trạng nguyên thủy, trở về với thân xác vinh quang đời đời bên cạnh Chúa Cha, đó chính là thân xác Phục sinh. Vì vậy, khi chúng ta nói Chúa Giêsu “Lên Trời” nghĩa là Ngài tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Cha, nơi Ngài hằng hữu từ muôn thuở.
Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha, thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” . Nói vậy nghĩa là Chúa vẫn còn ở với chúng ta sao ?
Kính thưa cộng đoàn, Chúa Giêsu Phục Sinh không còn lệ thuộc bởi không gian và thời gian nữa. Tuy Ngài đã về Trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng đồng thời Ngài vẫn còn hiện diện ở khắp mọi nơi và ở bên cạnh chúng ta luôn mãi.
Ngày nay, người Ki-tô hữu chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cộng đoàn biết đoàn kết yêu thương nhau, trong cộng đoàn họp nhau cầu nguyện, họp nhau nghe Lời Chúa, đặc biệt là trong Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta tham dự mỗi ngày qua Thánh Lễ. Như Chúa Giêsu đã nói: “ở đâu có hai ba người họp lại vì danh Thầy, thì có Thầy ở đó với anh em”. Điều quan trọng là chúng ta có đón nhận Ngài hay không?  Chúng ta có tạo điều kiện cho Chúa ở lại trong chúng ta hay không? Điều đó tùy thuộc vào tấm lòng của mỗi người.  Ví dụ như: 
·        Khi trong mỗi gia đình chúng ta có giờ đọc kinh sáng tối, thì Chúa đang hiện diện và ban ơn cho gia đình chúng ta đó.
·        Khi chúng ta tham dự thánh lễ hằng ngày và rước lễ, thì chính Chúa Giêsu đang ngự vào lòng chúng ta và thánh hóa chúng ta đó.
·        Khi chúng ta phạm tội, mà biết đến với Chúa qua Bí tích Hòa Giải, thì chúng ta đang nhận được sự bình an của Chúa, nhận được ơn tha thứ của Ngài giúp ta giao hòa với Chúa và với anh em đó.
·        Khi chúng ta sống yêu thương mọi người, hòa thuận với hàng xóm, rộng rãi với bạn bè, tôn trọng người bất hạnh …thì chúng ta đang đón nhận Chúa Giêsu trong con người anh em bên cạnh chúng ta đó.
·        Chúng ta cũng mới trải qua một Tháng Hoa kính Đức Mẹ, chính khi giáo họ, khu xóm tụ họp đọc kinh là khi có Chúa và Mẹ Maria ngự giữa và ban ơn cho chúng ta.
Kính thưa cộng đoàn, qua Lời Chúa hôm nay, Giáo hội muốn chúng ta xác tín hơn nữa vào sự hiện diện cũng như hoạt động của Chúa Giêsu Phục sinh trong Giáo hội. Nếu chúng ta muốn được biến đổi để trở nên như Chúa Giêsu Phục sinh, để được chia sẽ và hưởng hạnh phúc với Ngài, thì chúng ta hãy xây dựng cuộc đời mai sau ngay chính giây phút hiện tại bằng những gương lành, những việc bác ái,…. Vì vận mạng của ta cũng giống như vận mạng của Chúa Giêsu là đầu vậy, chúng ta chỉ có một cuộc sống duy nhất, nhưng gồm hai tình trạng, tình trạng trần thế và tình trạng vinh hiển mai sau.
 
Có một chuyện kể như sau: “Có hai anh bạn kia, một người giàu có, một người nghèo khó. Một ngày nọ, hai người cùng chết và lên cửa Thiên Đàng gặp ông thánh Phê-rô. Ông thánh Phê-rô dẫn anh bạn nghèo vào trước và dẫn đến một ngôi biệt thự sang trọng, lộng lẫy…anh bạn nhà giàu đứng ngoài cổng mừng thầm, thàng kia nhà nghèo mà được ở căn nhà như vậy, chắc là mình cũng được một căn hoành tráng hơn nhiều, nhưng đến khi thánh phê-rô dẫn ông nhà giàu vào đi lòng vòng khắp vườn thì chỉ cho anh nhà giàu một ngôi nhà tranh lụp lụp…ông này ngạc nhiên hết sức mới hỏi tại sao lại như vậy? Thánh Phê-rô trả lời: Anh bạn nghèo kia cả đời gởi lên cho ta biết bao nhiêu là vật liệu xây đựng: nào là gạch của yêu thương, đá của bố thí, ngói của tha thứ, sơn của khiêm nhường.v.v. nên ta mói làm được cho căn nhà đẹp như vậy. Còn con cả đời ta có thấy con gởi gì đáng kể đâu, vật liệu của con chỉ đủ làm căn nhà lụp xụp như vậy thôi, chưa kể là ta có cho thêm 1 ít xi-măng cho đủ tráng cái nền đó. Nghe vậy anh này đành im lặng không nói gì.”
 
Kính thưa cộng đoàn, có những việc đời thường mà ta chỉ làm theo thói quen, chứ không để ý tạo công phúc cho đời sau. Ví dụ như:
·        Hằng ngày, hằng tuần, cộng đoàn chúng ta đọc kinh Cải Tội Bảy Mối hay kinh Thương Người Có 14 Mối một cách thuộc làu làu, nhưng quan trọng là chúng ta có sống lời kinh đó không? ( Nào là: khiêm nhường chớ kêu ngạo, rộng rãi chớ hà tiện…Nào là: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc…)
Kính thưa cộng đoàn, mỗi khi chúng ta làm bất cứ việc gì cho người anh em bên cạnh là chúng ta làm cho chính Chúa, và khi đó chúng ta đang tích lũy công phúc để xây đựng cho đời sau đó.
 
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xác tín rằng Chúa đã sống lại, và lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng vẫn đang hiện diện bên cạnh con, giúp con vượt qua những khó khăn, vất vả của đời thường. Ước gì qua cuộc sống chứng nhân hằng ngày của con, xin cho con biết sống yêu thương mọi người chung quanh, để qua con mọi người thấy được Nước Chúa đang dần dần tỏ hiện. Amen !

BÀI CẢM ƠN TRONG THÁNH LỄ PHONG CHỨC PHÓ TẾ QUÝ THẦY KHOÁ 09 ĐCVSBNT

BÀI CÁM ƠN PHÓ T
(Chúng con xin trân trọng kính mời Quý Đức Cha, Quý cha cùng quý vị an toạ)
Trọng kính Đức Cha Giuse, Giám mục Giáo Phận Nha Trang.
Trọng kính Đức Cha Phaolô
Kính thưa Cha Tổng Đại diện. Cha Quyền Tổng Đại Diện.
Kính thưa Cha Đại diện Giám mục miền Ninh Thuận, Cha Đại diện Giám mục miền Khánh Hòa.
Kính thưa Quý Đức Ông.
Kính thưa Cha Giám đốc, quý Cha trong Ban Giám đốc, quý Cha Giáo Sư Đại Chủng Viện Sao Biển, Quý Cha Hạt trưởng, Quý Cha quản xứ, Quý Cha Nghĩa Phụ cùng Quý cha đồng tế.
Kính thưa quý Tu sĩ nam nữ, quý Thầy Đại Chủng Viện sao Biển.
Kính thưa ba mẹ, quý ân nhân,  thân nhân, bạn hữu cùng toàn thể cộng đoàn phụng vụ.
“Hồng ân Thiên Chúa bao la, Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn Người”. Đây là tâm tình của chúng con trong giây phút này ! Kính xin Quý Đức Cha, Quý Cha và Quý Vị hiệp cùng Chúng con dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì hôm nay, Thiên Chúa đã yêu thương trao ban Thánh Chức Phó Tế cho 14 anh em chúng con. Cùng với tâm tình này, chúng con xin được phép bày tỏ tấm lòng tri ân của chúng con với quý Đức Cha, Đức Ông, quý cha và quý vị.
Chúng con xin được phép dành giây phút đầu tiên để tưởng nhớ hương hồn Cố Đức Cha Phêrô, Cha Giáo Gioan Baotixita, Cha Giáo Anrê, Cha Cựu Quản Lý Augustino . . .
Trọng kính Đức Cha Giuse, chúng con xin chân thành dâng lên Đức Cha lòng biết ơn sâu xa về những gì Đức Cha đã yêu thương dành cho chúng con, như khẩu hiệu của Đức Cha “Yêu thương cho đến cùng”. Đức Cha đã quan tâm đến chúng con thật nhiều. Những bài nói chuyện, những lời huấn đức của Đức Cha không những giúp làm giàu thêm kiến thức mà còn đem đến những phương thức rèn luyện nhân cách hữu ích cho đời sống tận hiến của chúng con. Chúng con xác tín rằng, ơn gọi của chúng con đây là đến từ Thiên Chúa, nhưng hôm nay một cách đặc biệt, tiếng gọi ấy được thể hiện cụ thể qua việc đặt tay và truyền chức Phó Tế cho chúng con. Chúng con xin hết lòng tri ân cảm mến tình thương mà Đức Cha đã dành cho chúng con. Kính xin Đức Cha tiếp tục yêu thương  và nâng đỡ anh em chúng con trong hành trình sắp tới.
         Trọng kính Đức Cha Phaolô, Chúng con xin cám ơn Đức Cha, sự hiện diện của Đức Cha với chúng con trong Thánh lễ hôm nay đã nói lên sự quan tâm, yêu thương mà Đức Cha dành cho chúng con thật nhiều,  thời gian sau này, tuy không được ở gần bên, nhưng tấm gương của Đức Cha về một cuộc đời phục vụ trong âm thầm và tận tụy, cuộc sống vui vẻ và gần gũi, chúng con nguyện khắc ghi và noi theo trong cuộc đời của mình.
         Kính thưa Cha Tổng đại diện, Quý Cha đại diện Giám mục, Quý Đức Ông, Quý Cha Hạt trưởng, quý Cha quản xứ, Quý Cha Nghĩa Phụ cùng quý Cha đồng tế. Chúng con xin khắc ghi nghĩa cử yêu thương, qua sự hiện diện của quý Cha với anh em chúng con trong ngày hồng ân này. Kính xin quý Cha tiếp tục cầu nguyện và nâng đỡ, để chúng con luôn nhiệt tâm với sứ vụ của mình.
          Giờ đây, một cách đặc biệt chúng con xin hướng đến Cha Giám đốc, Quý Cha trong Ban Giám Đốc cùng Quý Cha giáo. Kính thưa Quý cha, Sáu năm nơi mái trường Sao Biển là giai đoạn vô cùng quí giá cho việc học tập và tu luyện của chúng con. Chính nơi môi trường này, chúng con đã có được những kinh nghiệm giá trị cho đời sống dâng hiến của mình, đặc biệt là kinh nghiệm về tình yêu và lòng biết ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã cho chúng con cơ hội được học tập với Quý Cha. Cảm ơn Quý Cha đã yêu thương dạy dỗ chúng con trở thành những môn đồ của Chúa Kitô. Chúng con nguyện ghi nhớ công ơn này. Xin quý cha nhận nơi chúng con lòng biết ơn chân thành.
Cách riêng, trong thời gian vừa qua chúng con đã được Cha Phó Giám Đốc Cha Linh Hướng hướng dẫn tĩnh tâm và chia sẻ về những điều cần thiết liên quan đến thánh chức Phó tế. Bên cạnh đó, Cha Phụng Vụ cũng lo lắng tổ chức Thánh Lễ và vất vả tập nghi thức cho chúng con, chúng con sẽ cố gắng sống xứng đáng với tình thương mà quý cha đã dành cho chúng con. Kính xin quý Cha thương tiếp tục dìu bước anh em chúng con, để chúng con mãi hăng say phục vụ Giáo Hội trong niềm tin yêu phó thác…
         Kính thưa quý Tu sĩ nam nữ,
       Sự hiện diện của quý tu sĩ trong thánh lễ hôm nay, phần nào nói lên tình thương và tinh thần hiệp thông dành cho ơn gọi. Chắc chăn rằng kinh nghiệm mục vụ, cũng như đời sống tâm linh của quý tu sĩ mãi là kinh nghiệm quý báu cho anh em chúng con. Kính xin quý tu sĩ luôn hướng dẫn và cầu nguyện cho anh em chúng con, để “cánh đồng phục vụ” của tất cả chúng ta luôn thấm đượm màu yêu thương.
Cùng quý thầy Đại Chủng viện thân mến,
       Làm sao chúng tôi có thể quên được những tháng năm đầy thân thương và kỷ niệm nơi gia đình Sao Biển này và đặc biệt là những tình cảm mà anh em đã dành cho chúng tôi trong thời gian gần đây. Sự chuẩn bị chu đáo của quý thầy đã góp phần cho Thánh lễ hôm nay thật long trọng và thánh thiêng. Xin cảm ơn quý thầy và xin lưu giữ mãi những kỷ niệm đẹp nơi mái trường này.   Xin quý anh em chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện và nâng đỡ cho nhau trong đời mục vụ mai ngày.
Kính thưa Quý Soeurs cộng đoàn Nazaret cùng Quý Cô, Chú trong Ban Đời Sống. Anh em chúng con biết rằng Quý Soeurs và Quý Cô, Chú đã vất vả rất nhiều, phải thức khuya dậy sớm, lo toan trăn trở trong sự hy sinh và quảng đại, để chăm lo cho chúng con những bữa ăn ngon, đầy đủ dinh dưỡng, để chúng con có sức khỏe để tu học. Anh em chúng con xin ghi nhớ công ơn này và nguyện xin Thiên Chúa yêu thương và ban nhiêu ơn lành cho Quý Soeurs và Quý Cô, Chú.
Kính thưa quý thầy cô, quý thân nhân- ân nhân, Chúng con xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và quý vị về những giúp đỡ về tinh thần và vật chất dành cho chúng con trong thời gian qua. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và trả công bội hậu cho quý thầy cô và quý vị, xin tiếp tục cầu nguyện và giúp đỡ chúng con.
Kính thưa quý bạn hữu cùng toàn thể cộng đoàn đang hiện diện,
        Sự hiện diện của quý vị hôm nay nói lên tình thương mến dành cho chúng con. Chúng con không thể nào quên những gì mà quý vị đã, đang và sẽ dành cho chúng con. Xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho chúng con.
“Công Cha nặng lắm ai ơi - Nghĩa Mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”
            Kính thưa Ba Mẹ, anh chị em cùng quý Thân Quyến, thật quá khó khăn cho chúng con khi đề cập đến những gì mà cha mẹ và anh chị em và mọi người đã dành cho chúng con. Tấm lòng Ba Mẹ và anh chị em  thật quá bao la đã sinh thành, dưỡng dục và quảng đại dâng chúng con cho Chúa. Chúng con chẳng biết gì hơn, ngoài việc cảm ơn Ba Mẹ và xin dâng cha mẹ cùng những hy sinh lên Thiên Chúa với một niềm xác tín rằng Người sẽ yêu thương ơn và chúc lành cho Ba Mẹ.  Xin Ba Mẹ, anh chị em cùng quý thân quyến tiếp tục hy sinh và cầu nguyện cho chúng con, để đời tận hiến của chúng con mãi đẹp tươi và trọn vẹn trong tình yêu của Thiên Chúa….
       Một lần nữa, chúng con xin hết lòng tri ân Đức Cha Giuse, Đức Cha Phao-lô, Quý Đức Ông, Quý Cha, Quý tu sĩ nam nữ cùng toàn thể cộng đoàn. Xin thương tiếp tục cầu nguyện cho chúng con để đời phục vụ của chúng con luôn được như lòng Chúa mong ước.
       Chúng con đồng tri ân, và giờ đây, lớp khóa IX chúng con xin kính dâng lên hai Đức Cha món quà kỷ niệm gói trọn tâm tình tri ân của chúng con.

https://mail.google.com/mail/images/cleardot.gifĐại diện: Phó tế G.B Trần Phan Thái Bình

ĐÔI QUANG GÁNH: MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA VĂN HOÁ VIỆT

ĐÔI QUANG GÁNH: MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA VĂN HOÁ VIỆT




Đối với người dân Việt, hình ảnh đôi quang gánh đã là một trong những thành tố quan trọng cấu thành nên nền văn hóa độc đáo và đặc sắc. Hình ảnh ấy quen thuộc đến mức mọi người mặc nhiên thừa nhận nó như một sự tất yếu và ít khi thắc mắc về nó. Có chăng chỉ là những cảm nhận lẻ tẻ thiên về mặt cảm tính trong mối liên hệ với hình ảnh người phụ nữ Việt.

 


Cao Văn Đức

Vì sao lại có đôi quanh gánh?

Nền nông nghiệp lúa nước đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị và sự ngạc nhiên ở nhiều phương diện, nhiều loại hình khác nhau. Trên cơ sở hệ thống hóa, liên hệ, so sánh và khu biệt loại hình để nhìn nhận về nền văn hóa gốc lúa nước Đông Nam Á cổ trong mối tương quan với loại hình văn hóa gốc du mục, gốc nông nghiệp khô, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều nhận định mang tính khái quát cao như: Bắc di mã, Nam di chu (phương Bắc di chuyển, vận chuyển chu yếu bằng ngựa, phương Nam di chuyển, vận chuyển chủ yếu bằng thuyền), Nam quyền, Bắc cước (võ học phương Nam thiên về quyền thuật (đôi tay), phương Bắc thiên về cước thuật (đôi chân)...

Chưa có một bằng chứng khảo cổ hoặc sử học nào khẳng định chắc chắn thời điểm ra đời của đôi quanh gánh, cũng như xác nhận chủ nhân đích thực đã sáng tạo ra đôi quang gánh. Nhưng chúng ta sẽ có lý nếu nói rằng người phương Nam vẫn chưa hề biết đến bánh xe trước khi tiếp xúc với phương Bắc (kể cả thông qua con đường tự nguyện lẫn cưỡng chế để đồng hóa). Và cũng từ đó đặt cho ta một thắc mắc: Vào thời điểm ấy, những thao tác vận chuyển, di chuyển của nghề nông cũng như trong đời sống sinh hoạt thường nhật ở đây người ta sẽ sử dụng phương tiện gì?

Thực ra ở Việt Nam tồn tại hai loại đòn gánh, một loại dùng để gánh khi kết hợp với đôi quang (có nơi còn gọi là đôi gióng) và đôi thúng, ngoài ra còn một loại có tên là đòn xóc.

Đòn gánh thì thường có đầu bằng, có mấu ở hai đầu để giữ cho đôi quang không bị trượt ra ngoài. Có loại đục thủng hai đầu để đóng chốt bằng gỗ, đồng; có loại tận dụng hai cái mắt của cây tre nhô lên để gọt, khắc thành mấu luôn. Nhưng dù là loại gì đi chăng nữa, đã là đòn gánh thì phải có mấu mới sử dụng được, đó như một sự hiển nhiên:

...Con ruồi có cánh, đòn gánh có mấu...

Đòn xóc là loại có hai đầu nhọn, không có mấu, loại này không cần đôi quang, đôi thúng gì cả, khi sử dụng, người ta cắm thẳng hai đầu nhọn ấy vào vật để gánh đi.

Vì sao lại có hai loại đầu nhọn và đầu bằng? Tại vì xuất phát từ nhu cầu ban đầu là vận chuyển phân, giống, mạ non, và những vật dụng có liên quan cho việc làm đồng cũng như cơm nước cho người làm ngoài đồng, xa nhà. Mà đặc điểm làm đồng cổ truyền của người Việt xưa là đi từ mờ sáng đến tối mịt mới về, vì thế phải đem theo tất cả lương thực, thực phẩm cho cả một ngày. Có lẽ cũng từ đặc điểm đó mới có bài dân ca “Đi cấy” nổi tiếng của người Thanh Hóa

Lên chùa bẻ một cành sen

Ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng...

Đòn xóc thì thường dùng để xỏ hai đầu nhọn vào hai bó lúa, bó mạ hoặc hai bó củi để gánh. Và xuyên suốt trong tiến trình lịch sử Việt Nam, hai vật dụng đơn sơ ấy vẫn song song tồn tại, tương hỗ cho nhau và trở thành một vật dụng vô cùng hữu hiệu trong hầu hết mọi việc của người Việt cho đến tận ngày nay.

Chất liệu

Phổ biến nhất là chiếc đòn gánh làm bằng tre, điều này có rất nhiều lý do, một trong những lý do là vì vùng Đông Nam Á với khí hậu nóng ẩm nhiệt đới chính là quê hương của các loại cây thuộc họ tre trúc. Hơn nữa cây tre vừa có tính dẻo dai, vừa rắn chắc, lại vừa nhẹ, đây là những đặc tính ưu việt mà không phải loại cây nào cũng có.

Quá trình chọn tre để vuốt đòn gánh, đòn xóc cũng tương đối thú vị. Đầu tiên phải chọn cây tre thật già để đảm bảo độ chắc, rắn ở thân và ở các mắt, sau đó là phải khỏe, không có vết xước, không có mối mọt. Sau khi gọt đẽo thành hình đòn gánh, đòn xóc rồi thì người ta vùi vào tro nóng, gọi là tui (tiếng Hán gọi là hãn thanh), để tăng độ dẻo (điều này vô cùng quan trọng), có nơi còn ngâm xuống bùn ao hoặc nước biển để chống mối mọt.

Tuy nhiên, tùy vào khí hậu, thổ nhưỡng từng vùng mà có chất liệu riêng. Ví dụ ở Bắc Trung Bộ, đòn gánh được làm từ loại tre gai. Tre phải là tre gốc, vừa chắc, vừa dẻo. Thân đòn gánh bẹ lớn (đặc điểm này nhằm vừa để phân tán lực cho bờ vai đỡ nhói, vừa đảm bảo khả năng chịu lực mà vẫn dẻo, không gãy), hai đầu đòn gánh được khắc mấu để giữ chặt đầu gióng. Loại đòn gánh tre có sức chịu nặng rất cao, phù hợp với sự tảo tần, chịu đựng của người dân nơi đây. Phan Thiết, La Gi lại có loại đòn gánh gỗ, thân mảnh mai, hai đầu thon nhỏ có gắn mấu đồng. Gỗ để làm đòn gánh ở vùng cực Nam Trung Bộ có tên gọi gỗ rõi. Rõi có thớ thịt ăn dọc, màu nâu tươi, gánh rất dẻo. Có thể truyền từ đời này sang đời khác.

Đôi gióng thường được kết bằng cây mây, rất dẻo và bền, không mối mọt. Đôi thúng thường được đan bằng tre, nứa, lồ ô… nên rất nhẹ.

Sử dụng

Độ dẻo của chiếc đòn gánh tạo nên một hiện tượng thú vị ở người gánh, đó là tuy người gánh cứ đều bước nhưng lực tác động lên đôi vai lúc nặng, lúc nhẹ. Vì khi người gánh nhịp hết diện tích của bàn chân chạm đất thì hai đầu đòn gánh cũng theo lực đàn hồi, quán tính của trọng lực mà cong xuống, sức nặng của vật gánh sẽ đè lên vai và chân trước, sau nhịp đó thì bàn chân của ta sẽ nhấc lên để bước và nhờ đó mà hai đầu đòn gánh cũng nhô lên cao quá vai người gánh theo quán tính của lực đàn hồi và trong khoảnh khắc đó, áp lực đè lên vai người gánh hầu như bằng không. Có phải chăng nhờ đó mà động tác gánh kết hợp hài hòa với nhịp bước uyển chuyển theo cùng một tiết tấu nhất định sẽ làm cho người gánh có độ bền trên quãng đường gánh xa, ngoài ra chúng ta còn có động tác chuyển vai và động tác dùng hai tay nắm hai đầu quang. Việc nắm hai đầu quang ấy sẽ ép vật nặng ở hai đầu quang về phía người gánh, đồng thời không tạo quán tính theo kiểu đa phương của lực (vì bị ảnh hưởng quán tính hướng đi cũng như nhịp bước của người gánh), mà chỉ còn có một chiều lên xuống (điều này đặc biệt tỏ ra rõ nét hữu dụng khi ta gánh chất lỏng sẽ không bị sánh ra ngoài), để mỗi cánh tay chịu bớt một phần trọng lực của vật gánh, nhờ đó lực đè lên vai tại chỗ tiếp xúc với đòn gánh theo một tiết diện tương đối nhỏ ấy sẽ giảm đi rất nhiều làm cho người gánh đỡ bị đau nhói. Phải chăng vì đặc tính ấy mà đã hình thành trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam một phản xạ, một sự lựa chọn tất yếu: Khi phải vận chuyển một số vật nặng đi xa thì thường là người ta chọn lựa cách chia đều nó ra để gánh thay vì xách, kéo, bê, ôm, bưng, cõng, gùi, vác, đội, gồng...

Có ý kiến còn cho rằng, khi đặt đòn gánh tiếp xúc lên vai, đồng thời với quá trình chịu lực nặng khi gánh ấy, đồng thời chính động tác đó còn giúp cho ta “đả thông được các huyệt kiên ngoại du, kiên ngung và kiên tĩnh trên vai và như thế người gánh sẽ được đả thông kinh mạch, khỏe re...” (dẫn theo WWW.enews.agu.vn).

Tính linh hoạt của nền văn hóa lúa nước

Bộ quang gánh tuy ba mà một, tuy một mà ba. Nó vừa nhẹ, vừa gọn, đi đâu cũng có thể đem theo bên mình được. Chiếc đòn gánh, đòn xóc khi làm nhiệm vụ gánh gồng, chia lực và chịu lực theo nguyên tắc của đòn bẩy, chúng cũng thể hiện tính linh hoạt rất cao tùy theo nhu cầu của người sử dụng, trọng lượng của vật, loại đồ vật, số lượng người sử dụng, độ dài quãng đường..., có lúc người ta sẽ gồng bằng cách một đầu để vật nặng, một đầu kia dùng tay để tỳ lên tạo thế cân bằng, có khi không gánh một người mà họ để vật nặng ở giữa, hai người khiêng hai đầu. Một người gánh, nếu vật ở hai đầu quang có trọng lượng không đều nhau thì người ta sẽ di chuyển điểm tiếp xúc giữa đòn gánh với vai về phía đầu nhẹ hơn để tạo sự cân bằng hoặc người ta bỏ thêm hòn đá vào cho nó đều nhau, nếu chiều dài của đôi quang quá khổ so với chiều cao của người gánh thì người ta sẽ buộc ngắn đôi quang lại...

Ngoài ra tính linh hoạt còn thể hiện ở việc sử dụng chiếc đòn gánh, nó không chỉ dùng để gánh mà đôi khi nó còn là vũ khí tự vệ, là cái cột dựng lều hoặc giăng mùng, màn hoặc dùng để chọc, khều, nối dài chiều dài của cánh tay...

Phương tiện đặc trưng

Phương tiện di chuyển, vận chuyển chủ yếu của cư dân phương Nam là thuyền, nhưng trên bộ thì đó chính là đôi quang gánh và đi bộ là chủ yếu. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến tận cuối TK XIX, phương tiện vận chuyển chủ yếu của gia đình Bác Hồ khi đi từ Nghệ An vào Huế là đôi quang gánh của mẹ Bác, vừa gánh đồ vừa gánh hai con Tất Thành và Tất Đạt.

Nếu như con lạc đà là hình ảnh quen thuộc ở vùng sa mạc, con ngựa là hình ảnh quen thuộc ở bắc sông Dương Tử (vùng Hoa Nam) và Âu châu, con voi là đặc trưng của Tây Nguyên... thì đôi quang gánh đã là một trong những biểu tượng cho nông thôn Việt Nam. Phương tiện ấy kết hợp với hình ảnh người phụ nữ đã tạo nên một loại hình văn hóa chợ quê rất riêng, rất độc đáo ở làng quê nông thôn Việt Nam.

Loại hình kinh tế tiểu nông với căn tính tự cung tự cấp, thương nghiệp kém phát triển, nếu có chăng đi chợ cũng là dạng buôn bán nhỏ lẻ với mớ rau, mớ cá, con gà, hạt muối,... (cho đến những thập niên 80 của TK XX, chợ Việt vẫn còn nhiều dấu vết của hình thức hàng đổi hàng), nghĩa là gia đình làm hái được bó củi hoặc hái được mớ rau thì gánh ra chợ bán lấy vài đồng rồi mua vài thứ như muối, mớ cá... đem về. Ngoài ra chợ quê không thể không nhắc đến những gánh hàng xén. Chợ quê không hề có sạp hàng, cửa hàng lớn và cố định như ngày nay, mà lớn nhất là những gánh hàng của những bà, những chị bán chuyên. Sáng ra gánh hàng ra chợ, bao gồm mỗi thứ một tí, tan chợ lại gánh về. Và hình ảnh những phiên chợ quê ấy, sự kết hợp nhuần nhị giữa nét linh hoạt, khéo léo và duyên dáng với tính cần mẫn, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam đã tạo nên một nét văn hóa chợ quê: thành phần tham gia chủ đạo là nữ giới. Chợ vừa là nơi trao đổi, mua bán, vừa là nơi gặp gỡ, chuyện trò, vui chơi, nhất là vào các dịp lễ tết... vì thế chợ quê vừa là trung tâm thương nghiệp vừa là trung tâm truyền thông của cả làng, cả vùng, là một trong những nơi thể hiện trọn vẹn nhất mọi mặt đời sống cũng như nhạy bén nhất với yếu tố mới.

Hình ảnh đôi quang gánh cùng với chiếc nón lá, bộ áo dài (xưa hơn một chút là nón ba tầm và bộ áo tứ thân, khăn mỏ quạ) đã tạc nên một trong những hình ảnh đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam, của làng quê truyền thống Việt Nam.

Thật khó khăn, nếu như không muốn nói là không thể, khi ta muốn thống kê hết được những câu thơ, câu ca dao tục ngữ cũng như là các tác phẩm nghệ thuật khác có đề cập đến hình ảnh của đôi quang gánh trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Điều đó nói lên tầm quan trọng, mức độ thân thuộc vô cùng của đôi quang gánh đối với đời sống nông thôn Việt Nam. Vì thế chăng mà mỗi khi người ta muốn tái hiện, sân khấu hóa... cảnh lao động ở làng quê Việt Nam, người ta chỉ cần cho diễn viên đội nón lá, mặc bộ áo nhuộm nâu non rồi khoác đôi quang gánh là đủ.

Nếu như ai đó có ý kiến cho rằng hình ảnh đôi quang gánh là tượng trưng cho sự gian lao, vất vả của người phụ nữ Việt Nam, điều đó chỉ đúng một phần. Chính yêu cầu về khả năng di chuyển nhịp nhàng, uyển chuyển trong khi gánh vô tình đã làm cho nó phù hợp với người phụ nữ hơn là nam giới. Tại sao cơ cực nhưng người phụ nữ không oán than trách móc? Đó là một bài học về đức hy sinh của người phụ nữ Việt Nam.

Người ta đã từng ví von, đất nước Việt Nam giống như một đôi quang gánh khổng lồ, chiếc đòn gánh là miền Trung, gánh hai thúng lúa khổng lồ là hai đồng bằng, sông Hồng và sông Cửu Long. Miền Trung nhận về mình sự thiệt thòi về điều kiện thiên nhiên khi quanh năm chỉ có gió Lào và cát trắng ấy cũng giống như sự chịu lực của chiếc đòn gánh để nhường cho hai đầu đất nước được trù phú, màu mỡ, no ấm, và cũng giống như đức hy sinh của người phụ nữ Việt Nam khi gánh đi phần gian lao khi nhọc để gánh về niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc và tương lai cho bao đứa con thơ. Và tính cách cần mẫn, chịu thương chịu khó, tiết kiệm... của người miền Trung cũng là nét độc đáo, nhằm tạo một sự cân bằng với tính cách thanh lịch vùng đồng bằng Bắc Bộ và tính phóng khoáng hào sảng của người Nam Bộ, nhằm tạo nên nét hài hòa, trọn vẹn trong bức tranh dân tộc tính của người Việt Nam. Bộ ba ấy cũng giống như triết lý tổng hòa của hai đầu quang gánh với chiếc đòn gánh vậy. Tuy ba mà một, tuy một mà vẫn có nét riêng, chức năng riêng và khả năng sử dụng độc lập của từng chi tiết.

Với địa hình đường bộ Việt Nam xưa, vốn bị chia cắt nhỏ lẻ bởi hệ thống sông ngòi, kênh rạch... nên đôi quang gánh lúc đi trên bộ là ba (đòn gánh, đôi quang, đôi thúng), lúc lên đò qua sông thì có thể thu gọn lại chỉ còn đôi thúng hoặc vật được gánh là chiếm diện tích nhiều... lúc lên bờ lại ghép lại để đi tiếp... tính linh hoạt rất cao. Ngược lại, với địa hình rừng rậm, đèo, đồi núi, phương tiện vận chuyển hữu hiệu phải là dùng sức kéo của voi, ngựa, trâu, bò (trước đây chưa có xe, chưa có bánh xe, người ta buộc trực tiếp vào các con vật ấy để kéo), gùi, điệu... sẽ hữu hiệu hơn.

Ngoài ra, nguyên lý về thao tác sử dụng của đôi quang gánh cũng đem đến cho ta một triết lý sâu sắc khác: Làm sao cho hai đầu quang gánh luôn nặng đều nhau. Vì chỉ có đều nhau thì trung điểm của chiếc đòn gánh mới cân bằng và lực được phân tán đồng đều, lực tác động lên vai ở mức ổn định nhất, đi được quãng đường xa nhất. Trong đời sống nông nghiệp lúa nước, sự khéo léo của đôi tay rất quan trọng, và hầu hết các thao tác của nghề nông đều dùng tay là chính. Ngoài ra yêu cầu về sự khéo léo, uyển chuyển, giữa nhịp độ và tiết tấu di chuyển ổn định cũng tạo nên sức bền cho người gánh. Tất cả điều đó nói lên rằng, trong đôi quang gánh đã hàm chứa rất nhiều yếu tố đặc trưng của nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước: thiên về nữ, linh hoạt, uyển chuyển, khéo léo, dẻo dai, bền bỉ, hàm chứa bài học nhân sinh sâu sắc triết lý trung dung, ưa sự hài hòa, sự cân bằng, sự ổn định, hòa bình.

Nếu chúng ta để ý sẽ thấy, đôi quang gánh không chiếm khoảng không theo chiều rộng của đường đi mà chỉ chiếm chiều dài của đường đi, điều đó dẫn đến một thực tế là trên một con đường nhỏ, những người gánh có thể vừa đi hàng hai, hàng ba…vừa nói chuyện mặt nhìn nhau được, nó hoàn toàn khác với những cỗ xe hoặc những con ngựa thồ thường nối đuôi nhau, người đi trước không thấy người đi sau. Cái cười nói chuyện trò ấy có tác dụng rất lớn trong việc giảm bớt đi cái mệt nhọc, đồng thời thể hiện nét văn hóa trọng tình của người Việt.

Nếu xét về mặt tính linh hoạt, nó còn hữu dụng rất nhiều khi có thể di chuyển đến mọi ngõ ngách, thôn xóm, một hình thức phân phối hàng hóa hữu hiệu, nghĩa là vận chuyển hàng hóa đến tận tay người mua, đến tận nhà, tiết kiệm tối đa chi phí cho người mua, đây là một loại hình thương mại rất độc đáo (ông bà mình thường nói là lấy công làm lãi) mà không phải nơi nào cũng có.

Thử liên hệ thêm về triết lý bằng cách so sánh giữa đôi quang gánh với chiếc đòn xóc cũng sẽ thấy đôi điều thú vị.

Nếu như đòn xóc chỉ có chiếc đòn xóc nhọn hai đầu để chọc thủng vào vật gánh thể hiện tính dương, tính phát triển, kết hợp với vai người và vật gánh sẽ tạo nên bộ ba liên hệ: người gánh, vật dùng để gánh (đòn xóc) và vật được gánh. Mối liên hệ giữa người gánh với vật gánh chỉ có một vật trung gian, gọn gàng, tuy nhiên bù lại nó nặng hơn và nguy cơ bị tuột, bị rơi vật gánh sẽ cao hơn. Vì thế đòn xóc thường phù hợp hơn với nam giới, thuận chất dương tính.

Thì đôi quang gánh lại có đến năm bộ phận: hai chiếc thúng (hoặc thùng), hai chiếc quang (gióng) và chiếc đòn gánh. Đôi thúng và hai cái mấu chính là cái giữ vật không bị tuột, thể hiện khả năng ổn định, khả năng bảo tồn, âm tính. Bộ phận trung gian truyền lực giữa vật gánh với đòn gánh là đôi quang. Nếu xét theo bộ phận tổng hợp thì chỉ còn ba bộ phận chính là vật được gánh, đòn gánh để trung gian truyền lực và người gánh. Sự phối hợp nhịp nhàng của tất cả các bộ phận của bộ quang gánh cùng với tay chân, vai... trên cơ thể người gánh tạo nên một sự tổng hòa tuy mềm mại, uyển chuyển nhưng rất có nguyên tắc trong khả năng phân tán lực. Vì thế động tác gánh nhìn mềm mại hơn, nhẹ hơn so với bộ đòn xóc, và phù hợp hơn với nữ giới, thiên về âm tính.

Gánh hàng rong và một vài liên hệ với thực tế xã hội ngày nay

Tưởng chừng đôi quang gánh sẽ lùi vào lịch sử khi cơ giới hóa, công nghệ hóa đang ngày một chiếm ưu thế và phổ biến, nhưng gánh hàng rong vẫn tồn tại từ nông thôn tới các đô thị lớn nhất Việt Nam.

Các nhà kinh tế học nhìn nhận gánh hàng rong như một loại hình thương mại quan trọng, khi họ thống kê “...Mỗi gánh hàng rong bán khoảng 200 nghìn tiền hàng/1 ngày. Lấy con số 200 nghìn nhân khoảng 1 triệu lao động thì sẽ được gần 200 tỷ/1 ngày, và vài chục nghìn tỷ/1 năm” (theo ông Bùi Kiến Thành, chuyên gia kinh tế).

Các nhà quy hoạch đô thị thì nhìn nhận gánh hàng rong như một yếu tố làm ảnh hưởng xấu đến mỹ quan đô thị, chính vì thế người ta đã có hẳn một quy định cấm hàng rong (có hiệu lực từ ngày 19-1-2008). Nếu nhìn điều này dưới góc độ văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước ta sẽ hiểu vì sao trong nền văn hóa Việt Nam lại có hiện tượng nông thôn hóa đô thị và xét theo cấp độ ổn định và phát triển thì làng xã và quốc gia là dương tính, còn đô thị và quốc tế lại âm tính.

Cuộc triển lãm mang tên Gánh hàng rong do Bảo tàng Phụ nữ tổ chức nhân dịp Ngày phụ nữ Việt Nam 20-10 với 128 bức ảnh mang đậm hơi thở cuộc sống. Nhóm nghiên cứu của Bảo tàng Phụ nữ đã làm việc trong gần 9 tháng, phỏng vấn hàng trăm người, chụp hàng nghìn bức ảnh... tất cả những việc đó nhằm tôn vinh người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ những phẩm chất cao quý.

Khi tôi tìm hiểu một số khách nước ngoài thì được biết, đa phần họ rất thú vị với những gánh hàng rong và họ thừa nhận đó là một nét duyên dáng, uyển chuyển, một giải pháp mềm hóa độc đáo của đô thị Việt Nam.


Tác giả bài viết: Cao Văn Đức Nguồn tin: vanhoahoc.net

CÁI TÔI CỦA BẠN NHƯ THẾ NÀO ?

CÁI TÔI CỦA BẠN NHƯ THẾ NÀO ?





Nhà khoa học lừng danh thế giới Einstein đã viết: Ego = 1/Knowledge tạm dịch là cái tôi của con người sẽ tỷ lệ nghịch với kiến thức của người đó.
Theo tôi nghĩ đây là vấn đề mà mỗi người chúng ta chắc hẳn ai cũng ít nhất một lần quan tâm đến. Vì ai cũng muốn mình sẽ có thể sống tốt, sống hòa nhập với mọi người xung quanh và hơn thế nữa ai cũng muốn mình được nể trọng và tôn kính. Nhưng lắm lúc chính nó – cái tôi của chúng ta khiến chúng ta mất đi bạn thân, ấn tượng xấu với đồng nghiệp rồi người xung quanh không hài lòng về chúng ta.

Vậy cái tôi của bạn nó như thế nào? Nó nên to hay nhỏ là tốt nhất?

Mỗi người chúng ta từ lúc sinh ra đến chết đi ai cũng mang trong mình một cái tôi, nó lớn hay nhỏ, tốt hay xấu tùy thuộc vào mỗi chúng ta. Theo triết học cái tôi chính là đặc tính để phân biệt tôi với những người xung quanh. Mỗi người trên thế giới này đều tưởng chừng là giống nhau. Gần gủi nhất chính là những anh chị em song sinh cùng trứng, họ là những người rất giống nhau như hai giọt nước nhưng chính cái tôi của họ sẽ giúp chúng ta phân biệt họ.
Trong phân tâm học, cái tôi là phần cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu ảnh hưởng của tác động xã hội. Cái tôi được hình thành ngay từ khi con người sinh ra và qua tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cái tôi học cách cư xử sao cho kiểm soát được những ham muốn vô thức không được xã hội chấp nhận. Cái tôi có vai trò trung gian hòa giải giữa những ham muốn vô thức và những tiêu chuẩn nhân cách và xã hội. Cái tôi của bạn nó sẽ lớn lên từng ngày theo quá trình sống của bạn.
Khi bé, cái tôi của bạn đã bắt đầu xuất hiện, bạn có thể bị người lớn la rầy nhưng thường trẻ con sẽ không để bụng những điều này. Chúng quên đi rất nhanh và không giận dõi ai vì bất cứ điều gì. Nhưng khi bước vào giai đoạn tích lũy kiến thức, nhận thức và trưởng thành thì con người ta càng trở nên khó chịu hơn. Một khi có bạn bè của chúng ta có thành tích cao hơn chúng ta thì phần lớn lại tỏ ra khó chịu và ganh tỵ. Chúng ta không thật sự thoải mái để vui mừng chia sẻ niềm vui với bạn của chúng ta.
Tôi có xem bộ phim “Ba Chàng Ngốc” một phim có tính giáo dục của Ấn Độ, tôi còn nhớ câu này của hai nhân vật trong phim khi họ xem kết quả thi: “Khi bạn chúng ta trượt chúng ta buồn nhưng khi biết bạn chúng ta là người đứng đầu chúng ta lại càng buồn hơn.” Đó là một phản ứng bình thường về hành vi của con người nên chắc hẳn trong cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng một lần hay nhiều lần bắt gặt được cảm xúc này. Một cái tôi ích kỷ trong mỗi chúng ta trỗi dậy, chúng ta luôn cảm thấy ấm ức, bực tức rằng tại sao là nó mà không phải chúng ta.
Hoặc khi tranh luận trong lớp học hay tại nơi làm việc khi chúng ta làm việc nhóm. Thông thường việc tranh luận như vậy thường để chứng rằng bạn đúng hoặc tôi đúng mà thôi. Ai cũng muốn giành điều đúng về phần mình và ai cũng muốn bắt người khác phải nghe lời của chính mình. Đó là lúc cái tôi của chúng ta trỗi dậy mạnh mẻ nhất, nó không chịu nghe lời của bất kỳ ai, kể cả chính chúng ta. Chính vì nó quá lớn nên chúng ta thường quên mất là bản chất của tranh luận là để tạo nên sự đồng thuận để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang gặp phải, chứ không phải để tìm ra người đúng, người sai.
Trong tình cảm cũng vậy, cái tôi lớn lên làm cho chúng ta trở thành người cố chấp, không chịu nhún nhường nhau. Chính vì vậy có rất nhiều mối quan hệ đỗ vỡ chỉ vì cái tôi của mỗi cá nhân quá lớn. Tại sao chúng ta có thể để cho nó phá nát tất cả mọi thứ của chính chúng ta nhỉ. Chúng ta có hạnh phúc khi làm theo nó không. Chắc là không, mỗi khi chúng ta ganh tị, tranh giành, tự ái, tự ti bản thân hay tranh luận để chứng minh là mình đúng thì đó là lúc chúng ta tự tạo cho mình áp lực và nó ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe tinh thần của chúng ta. Khiến chúng ta cảm thấy ức chế và mệt mỏi hơn.
Đôi khi cũng có người có kìm nén cảm xúc dằn cái tôi cá nhân của mình xuống, chúc tụng bạn mình, hạ mình trong làm việc nhóm hay nhún nhường trong các mối quan hệ. Để rồi nén nó lại theo năm tháng, đó chính là các quả bom đã được định giờ và nó sẽ phát nỗ đến khi cực điểm của sự chịu đựng. Ấy nên chúng ta đừng nên giải quyết cái tôi của chúng ta theo cách này nhé.
Tuy nhiên, chắc ai cũng thấy được mặt tiêu cực và tích cực nếu cái tôi của chúng ta được sử dụng hợp lý. Vì không ai có thể triệt tiêu nó được, mất nó chính là mất đi nhận dạng cá nhân, như vậy trái với luật tự nhiên. Nếu cái tôi của bạn quá lớn, lúc nào cũng xem mình là nhất, không chịu thua kém bất kỳ ai, bất cứ việc gì, luôn xem thường suy nghĩ của người khác,…thì lúc đó chúng ta hãy tự soi gọi chính và sữa chữa, khắc phục nó. Đấy là mặt tiêu cực của cái tôi.
Tuy nhiên, nếu mỗi chúng ta biết sử dụng sức mạnh của cái tôi đúng lúc, lớn mạnh đúng lúc và nhỏ dần đúng lúc như khi tranh luận thì chúng ta hăm hở bảo vệ chính kiến của chúng ta nhưng khi có gì mới đáng để học hỏi thì chúng ta chấp nhận lùi bước để đạt được sự đồng thuận thì điều đó sẽ rất tuyệt vời. Vì kiến thức của thế giới này là vô tận, mỗi người một lĩnh vực, không có người là bách khoa toàn thư để rồi có thể trên tường thiên văn mà dưới thì am tường địa lý. Nên việc hạ cái tôi nhỏ bé lại để học hỏi là điều đáng trân trọng và sẽ được xã hội đánh giá cao.
Do vậy, đừng bao giờ để cái tôi cá nhân làm mình mất những người yêu thương xung quanh. Cái tôi cũng như mọi thứ khác, biết sử dụng hợp lý, điều chỉnh hợp lí và dừng lại đúng mức thì vô cùng có lợi. Chúng ta: “Cần cái tôi to và cái tôi nhỏ trong cùng một con người vào cùng một thời điểm.” Để chúng ta có thể thành công hơn trong cuộc sống các bạn nhé.

Mr Lias
nguồn: http://www.triethocduongpho.com/2014/06/05/cai-toi-cua-ban-nhu-the-nao/
 

Tác giả bài viết: Mr Lias Nguồn tin: www.triethocduongpho.com