Tự do ngôn luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất
đắt cho nó: Khi dân chúng được quyền tự do, muốn nói gì thì nói, họ đôi khi
dùng sự tự do đó để nói những điều ngớ ngẩn. Và đó là 12 điều mà chúng
tôi sẽ bàn ở đây.
Có một ít điều được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được
nhắc đến, trong khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá
chúng, chúng ta là người Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.
1."Không có gì là chân lý tuyệt đối cả. Ðiều đúng cho bạn, chưa chắc đã đúng
cho tôi".
Người ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và
không có cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là
đúng cho tất cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để
làm họ đổi ý cả.
Nhưng hãy nhìn lại câu nói "Không có gì là chân lý tuyệt đối cả"
một lần nữa.
Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác,
nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người - chính là điều mà những
người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng
cách đưa ra lập luận của họ.
Một vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại
thật sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, "Không có chân lý tuyệt đối
nào cả", và bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng.
Nhưng theo niềm tin của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể
sai đối với anh, nhưng có thể đúng đối với bạn.
Khi đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: "Bao
lâu bạn không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý".
Nhưng đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác).
Ai nói là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà
đến?
Nếu câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối
với người khác. "Ðừng làm hại" chính nó là một thỉnh cầu đối
với một cái gì cao trọng hơn - một loại phẩm giá chung của con người.
Nhưng câu hỏi lại là phẩm giá từ đâu đến.
Như bạn có thể thấy, càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết
rằng quan niệm về lẽ phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài
chân lý cao quý và phổ quát ngoại tại – một chân lý được viết trong chính bản
tính của chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn, nhưng không thể chối
rằng không có chân lý đó.
+++
2.“Kitô giáo không hơn gì các tín ngưỡng khác. Tất
cả mọi tôn giáo đều dẫn đến Thiên Chúa”.
Nếu bạn không nghe đến câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu.
Ðáng buồn là những người nói lên điều này thường lại là Kitô hữu (ít ra trên
danh nghĩa).
Những trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra
một chuỗi những lời xác nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu
Nadareth là Thiên Chúa, và Người đã chết và sống lại - tất cả để chúng ta được
giải thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những
điều này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một
chân lý sống còn - một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.
Chỉ điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất.
Nhưng nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh
Gioan: "Thầy là đường, sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với
Chúa Cha, mà không qua Thầy".
Trong Kitô giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại.
Ðúng là tất cả các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý - số lượng thay đổi tùy
theo tôn giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và thờ phượng
Thiên Chúa, chúng ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?
Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn
chân lý này.
+++
3. "Cựu Ước và Tân Ước trái ngược nhau ở nhiều chỗ. Nếu một Thiên Chúa
toàn năng linh hứng Thánh Kinh, thì Ngài đã không để cho có sai lỗi".
Ðây là một luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet
(nhất là những website vô thần và tự do tư tưởng).
Một bài trên website của Vô Thần ghi rằng "Ðiều lạ thường về Thánh Kinh
không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính là những mâu thuẫn được bịa đặt vô
nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa thượng trí viết ra."
Những câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu "mâu
thuẫn" trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn, có
ít sai lầm đơn giản. Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau
trong Thánh Kinh theo thể văn mà các sách đó được viết.
Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại văn tự... lịch sử, thần học,
thơ phú, và khải huyền,vv.... Nếu chúng ta đọc các sách này cùng một cách cứng
ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ bị bối rối kinh khủng.
Và danh sách "các mâu thuẫn" trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí
dụ lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ: "Hãy nhớ ngày Sabát,
và giữ nó cách thánh thiện." Xuất Hành 20:8 /
So với: "Người thì cho rằng
ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như nhau.
Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình." Rom 14:5
Người vô thần la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên
không nhắc đến điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước
Mới, thì những đòi hỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì
thế việc những luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân
của Tân Ước là điều hoàn toàn hợp lý.
Nếu nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc
phải một lỗi sơ đẳng như thế.
Ðiều kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương
tự:"...trái đất mãi mãi trường tồn." Giảng Viên 1:4 / So với:
"...các nguyên tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình
trên đó sẽ bị thiêu huỷ." 2 Phr 3:10
Vậy Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói
rằng nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất
dễ, lại theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra. Thí dụ
Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo - và hẩu hết sách này viết
theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như,
"Bánh được làm cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc
giải quyết được tất cả" (GV 10:19).
Tuy nhiên, ở cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả
"sự khôn ngoan" ông tặng và bảo chúng ta "Kính sợ Thiên Chúa, và
tuân giữ giới răn Ngài; vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người.." (12:13).
Nếu một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê
bình gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế
giới trường tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu
thuẫn với điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để
trả lời tố cáo về sự khác biệt này)
Những "mâu thuẫn" khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách
tương tự. Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không
để ý đến thể văn, và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.
Không một Kitô hữu biết suy nghĩ nào, phải bối rối về những danh sách này.
+++
4."Tôi không cần đến
Nhà Thờ. Bao lâu tôi là một người tốt, chỉ có điều đó mới đáng kể".
Luận điệu này được dùng thường xuyên, và rất gian xảo.
Khi một người nhận mình là "người tốt," người đó thật sự ám chỉ rằng
họ "không phải là một người xấu." - người xấu là người sát nhân, hiếp
dâm, và trộm cắp. Phần đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội
này, và đó là tư tưởng: Chúng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông
qua. Ðiều đó không giống Ðức Kitô lắm, phải không?
Nhưng bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo
đền Nhà Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa.
Thánh Lễ là viên đá góc của đời sống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở
trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đời sống cho
người Công Giáo, là những người tin rằng bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật
của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên
Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có
thể cảm nghiệm được bằng cầu nguyện.
Chúa Giêsu phán, "Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn
thịt Con Người và uống máu Người, các người không có sự sống trong các người;
ai ăn thịt và uống máu Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết" (Ga 6:53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chúa
Giêsu và tin tường vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ.
Hơn nữa, bí tích Thánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho
những người ờ trong Hội Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của
Ðức Kitô trên thế gian, đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của
người khác trong Hội Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa
thật quan trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung
thành của nhiệm thể Ðức Kitô. Là "người tốt" mà thôi, chưa đủ.
+++
5. "Bạn không cần
phải xưng tội với một linh mục. Bạn có thể đến thẳng cùng Thiên Chúa".
Như một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin
Lành (họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói
một điều như thế... thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là
thế, người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra
lý do để biện minh tại sao không làm thế..
Bí Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô: "Chúa
Giêsu lại bảo các ông, 'Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai các con.' Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, 'Các con
hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc'' (Ga 20:21-23).
Nên ghi nhận rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội. Tất nhiên, họ
không biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta
phạm.
Việc xưng tội cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê: “Có ai trong anh
em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện trên người
ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức tin sẽ cứu
người bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ
được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được
chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn
lao” (Gia 5:14-16).
Ðiều đáng quan tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng
ta là chỉ xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến
bằng cách xưng tội công khai.
Và lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không
những mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội
Thánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha).
Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ -
Thiên Chúa và Hội Thánh.
Hãy nghĩ về xưng tội cách này.
Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài món hàng. Sau đó, bạn áy
náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin Thiên Chúa
tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác liên hệ;
bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn.
Ðối với Hội Thánh cũng thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên
Chúa và Hội Thánh, vì chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha
tội, thì sự tha thứ chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.
+++
6. "Nếu Hội Thánh
thật sự theo Chúa Giêsu, thì đã bán các nghệ thuật, tài sản, và các công trình
kiến trúc lãng phí, mà cho người nghèo".
Khi một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc
giàu sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở
các xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến
Vatican cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những
điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm.
Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là "Ðiện
Vatican" không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra,
khu vực gia cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ
thuật, khoa học, điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có
một số đông nhân viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng
Ðức Thánh Cha, làm cho nó thành trụ sở chính của Hội Thánh.
Còn về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới,
Vatican coi đó như một "kho tàng không thể thay thế được," nhưng
không phải về diện tài chánh. Ðức Thánh Cha không làm chủ những tác phẩm nghệ
thuật này, và nếu ngài muốn, ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ
được đặt dưới sự săn sóc của Toà Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi
đến cho Hội Thánh, mà ngược lại, Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không
nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này.
Sự thật của vấn đề này là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại
sao lại giữ những nghệ phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh
là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời
trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai -
nếu không thì những văn bản này không còn nữa - Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ
thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày
nay khi mà từ "văn minh" chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá
văn minh của Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.
+++
7. "Chống đối thực sự
là điều tích cực, vì tất cả chúng ta phải có đầu óc cởi mở đối với những tư
tưởng mới".
Ngày nay, có lẽ bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù
về lạm dụng tính dục trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề,
trong đó có người đưa ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ
nữ, hay mở cửa cho đống tính luyến ái làm linh mục, v.v...). Nhiều người đổ tội
cho Hội Thánh vì quá cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới.
Sự thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì
là mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng.
Thực ra, Hội Thánh đã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết
định rằng tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh
đã gạt ra hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo
lý Ðức Tin. Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác
ngày nay -- tất cả các giáo hội đó đều một thời có "những tư tưởng
mới" mà Hội Thánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.
Hội Thánh có môt nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ sự vẹn toàn của Ðức Tin. Hội
Thánh không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết
án, nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải
tin và phải giữ gìn là chân thật.
Ðiều này không có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở
điểm gì. Luôn luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của
chúng ta về chân lý – thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương
quan giữa giáo sĩ và giáo dân – tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc
Ðức Tin.
+++
8. Nếu giải thích đúng,
Thánh Kinh không lên án đồng tính luyến ái. Nhưng đúng hơn là chống lối sống
bừa bãi - dù là đồng tính hay giữa nam nữ. Vì vậy, chúng ta không có lý do để
chống liên hệ tình yêu đồng tính".
Khi hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa
của chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm
đoán điều này cách tỏ tường trong Thánh Kinh. Hiện thời, tiêu chuẩn của phe cấp
tiến là cho rằng Thánh Kinh - khi hiểu đúng - không cấm những hành vi đồng
tính.
Nhưng luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước
lẫn Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và
Gômôra. Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông
Lót: "Nhưng khi các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người
Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi
ông Lót và bảo: "Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra
cho chúng tôi chơi." Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau
lưng," rồi nói: "Thưa anh em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có
hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em
muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ,
vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi." Chúng đáp: "Xê ra! Tên này là một
kiều dân đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn
là với những tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng
hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK
19:4-10)
Thông điệp của đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến
ái muốn liên hệ tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ
con gái ông, nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để
đền tội dân chúng phạm -- đó là các hành vi đồng tính luyến ái. Sự thật này
được Tân Ứớc xác nhận: “Như Sôđôm, Gômôra và các thành lân cận cũng có cùng
một thái độ như họ, buông tuồng trong việc tà dâm, và chạy theo những chuyện
xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng để làm gương, bằng cách chịu phạt
trong lửa đời đời. (Giuđa 7)
Nhưng không phải chỉ có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng
tính. Cựu Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: "Ngươi không
được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm." (Levi
18:22).
Và những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
"Vì lý do đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ
của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông
cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông
làm việc tồi bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự
suy đồi của họ." (Rom1:26-27)
Thật khó vô cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại.
Ở đây không chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đồng tính; nhưng
Thánh Phaolô chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là
"trái tự nhiên," "tồi bại" và "đồi bại").
Các Kitô hữu cấp tiến bị trói tay.
Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái với Thánh Kinh?
Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý của Thánh Kinh, và giải
thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.
+++
9. "Người Công Giáo
nên theo lương tâm trong mọi sự... dù là phá thai, ngừa thai, hay phong chức
thánh cho phụ nữ".
Ðúng - Sách Giáo Lý nói rất thẳng, "Con người có quyền hành động theo
lương tâm và sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. Không được cưỡng bách
ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động
theo lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo" (1782). Giáo
huấn này là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do.
Nhưng điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm
hay có thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có
"một lương tâm được huấn luyện chu đáo."
Sách Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề: "Lương
tâm luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con
người làm lành lánh dữ.... Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng
cách chiếu theo Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được
thu hút và đón nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan
có thể nghe tiếng Thiên Chúa đang nói" (1777).
Nói cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là "cái gì chúng ta cảm
thấy đúng"; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều
chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúa và Hội Thánh. Và để phán đoán, chúng
ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách
Giáo Lý có trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng
-- và nó quan trọng thế nào trong việc quyết định đúng.
Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta
làm: "Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng
ta làm" (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào
chúng ta làm sai và cần được tha thứ tội lỗi chúng ta.
Bằng cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật
sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý
vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn
cản chúng ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta
làm những gì là đúng. "Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem
lại bình an trong tâm hồn" (1784).
+++
10. "Phương Pháp Tự
Nhiên chỉ là một cách ngừa thai của Công Giáo".
Phương Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách
ngừa thai khác thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong
khi người khác lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai... PPTN phải đi
giữa ranh giới của hai cực đoan.
Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ
thể chúng ta - và cách chung, sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành
động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính
dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy.
PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem
đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận
một đứa trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể
của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn
đề với bạn đời, và trên hết, là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ
của tính dục, bạn tham gia vào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh
liên quan.
Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉ vào những người không thể cố gắng
có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là
những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN - những hoàn cảnh mà phương pháp
này hoàn toàn hiệu quả - và Hội Thánh cho phép dùng nó.
Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong
gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài
thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự
sống Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về
phương diện này.
Thí dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung tung và nói rằng “Thiên Chúa sẽ cung
cấp”, các gia đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu
xài quá khả năng của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy
nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh
thần cầu nguyện. Biết mình và dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động
mong chờ Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng
ta được mời gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng
ta phải cẩn thận đừng coi thường các ân huệ này.
+++
11. "Người ta có thể
vừa ủng hộ phá thai (tự do chọn lựa), vừa đồng thời là Công Giáo".
Trong khi đây là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về
đức tin của họ, nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ
một chữ nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội giết người trong
các tội phạm đến điều răn thứ năm, "Chớ giết người."
Những đoạn sau, nói rõ: "Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo
vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai" (2270). "Ngay từ thề
kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố
tình. Giáo huấn này không thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi"
(2271). "Hợp tác chính thức vào việc phá thai là tội trọng. Hội Thánh
gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sự sống con người"
(2272).
Có thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là
người "tự do chọn lựa" không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người
cho rằng phá thai là sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người
khác.
Ðó là lại là luận "điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi" mà thôi.
Hội Thánh cũng có câu trả lời cho lập luận này: "Những quyền bất khả
xâm phạm của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn
trọng. Những quyền này không lệ thuộc vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không
phải là một nhân nhượng của xã hội và của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con
người và gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà
từ đó sinh ra con người" (2273).
Tính linh thiêng của sự sống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được.
Khuyên ai phá thai, hay ngay cả bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá
thai, là một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng - là điều mà Sách
Giáo Lý gọi là làm gương mù (2284).
Hội Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống phá thai, và chúng ta là người Công Giáo
cũng phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế.
+++
12. "Việc người ta
nhớ lại cuộc sống ở kiếp trước chứng tỏ rằng luân hồi là đúng... và quan điểm
của Kitô Giáo về Thiên Ðàng, Hỏa Ngục là sai".
Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta
có thể chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận rằng "nhớ lại kiếp trước". Quả
thật, bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng
cách dùng thôi miên.
Trong khi điều này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết
phục được những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà
khảo cứu đã ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên, thường
thêu dệt những câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có
thật. Những nhà chữa trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này, và cẩn thận cân
nhắc những gì bệnh nhân nói khi bị thôi miên.
Ðáng buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm
"bằng chứng" của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn
này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó,
thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia
Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho rằng có thời bà là
một phụ nữ tên là Bridey Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ Lan.
Câu chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, "Cuộc tìm
kiếm Bridey Murphy," và được nhiều chú ý. Các ký giả lục soát khắp Ái Nhĩ
Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước
này. Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được
dùng để chống đỡ các lý luận về luân hồi.
Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục
năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh
động của bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh
tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà
còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên
họ là - bạn oán xem - Bridie.
Hơn nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác
nhau từ chính đời sống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi
này). Thí dụ, Bridey diễn tả về "Bác Plazz," mà các nhà nghiên cứu
cho là cách nói sai của người Gaelic "Bác Blaise." Tuy thế họ bị cụt
hứng khi khám phá ra rằng Virginia có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là "Bác
Plazz."
Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong
một lần bị thôi miên.. Làm sao mà một bà nội trợ ở Colorado lại học được cách
nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã
học điệu nhảy này khi còn bé.
Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp
luôn luôn gợi cảm hơn thực tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào
chứng minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là có nhiều
câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên,
bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng
ta.
Tác
giả: DEAL HUDSON
(Giáo
Lý viên Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ)
Nguồn:
http://tonggiaophanhue.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét