Vấn nạn Đức Tin - Thiên Chúa có cần con người làm việc lành để được cứu rỗi không?
Hỏi: Tại
sao các anh em Tin Lành nói chỉ cần tin Chúa Kitô là được cứu rỗi,
trong khi Giáo Hội Công Giáo dạy phải làm thêm việc lành nữa?
Trả lời: Liên quan đến vấn đề cứu rỗi (salvation) thì giữa Giáo Hội Công Giáo và anh em Tin Lành nói chung (Protestants)
đã có sự khác biệt lớn lao, hầu như không thể vượt qua được để có thể
đi đến chỗ cùng chia sẻ một niềm tin về ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Trước hết, chúng ta cần biết qua về Nhóm Kitô giáo gọi chung là Tin Lành (Protestantism)
do những người chủ xướng như Martin Luther ở Đức, năm 1517; John
Calvin ở Pháp, Ulrich Zwingli ở Thụy sĩ , và King Henry VIII và Wolsey
ở Anh năm 1527. Họ đã tự tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo để tiến hành
cái gọi là “Cải cách tôn giáo” (Protestant Reformation) trong thế kỷ 16 ở Âu Châu và sau này lan tràn sang Mỹ và Á Châu. Riêng ở Mỹ, các nhóm Tin Lành chính gồm có Baptists, Methodists, Lutherans, Presbyterians, Protestant Episcopal, United Church of Christ, Episcopalians, Quakers, Disciples of Christ of the Later-day Saints, Jehovah’s Witnesses…
Quan điểm thần học của họ dựa trên 2 tiêu chuẩn hay hai nguyên tắc căn bản chính sau đây :
1- Vai trò tối cao của Thánh Kinh (Supremacy of the Scriptures) như là nguồn duy nhất (Sola Scriptura) cho Niềm tin và chân lý Kitô Giáo.
2- Sự công chính hóa (Justification), hay ơn cứu độ, chỉ nhờ vào đức tin mà thôi.
Tất cả hai nguyên tắc trên đều không hoàn toàn phù hợp với niềm tin và giáo lý của Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo (Orthodox Churches) vì những lý do như sau:
Thứ nhất - Giáo Hội Công Giáo tin Thánh Kinh, Mạc Khải (Revelation), và Thánh Truyền (Sacred Tradition)
là 3 nguồn chân lý của đức tin trong khi anh em Tin Lành chỉ tin có
Thánh Kinh, không công nhận Mạc Khải và Thánh Truyền, kể cả Quyền Giáo
Huấn (Magisterium) của Giáo Hội và vai trò lãnh đạo của Đức
Thánh Cha. Họ tin Kinh Thánh, nhưng lại hiểu theo cách cắt nghĩa riêng
của họ, khác với cách hiểu và cắt nghĩa của Công Giáo.
Cụ thể, liên quan đến đoạn Thánh Kinh Tân Ước trong Tin Mừng Thánh Matthêu sau đây:
“Người
(Chúa Giêsu) còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người
đứng bên ngoài tìm cách nói chuyện với Người. Có kẻ thưa Người rằng:
“Thưa Thầy, có Mẹ và anh em Thầy đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện
với Thầy.” (Mt 12: 46-47)
Anh em Tin Lành đã cắt nghĩa cụm từ “anh em”
ở trên theo nghĩa anh em huyết tộc, để từ đó nói rằng Đức Mẹ, sau khi
sinh Chúa Giêsu, còn sinh thêm một số người con nữa, và từ ngữ “anh em”
trong câu trên được họ giải thích là con ruột của Đức Mẹ, em của Chúa
Giêsu, cho nên Đức Mẹ không còn đồng trinh trọn đời như Giáo Hội Công
Giáo và Chính Thống tin.
Ngược lại, Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo cắt nghĩa từ ngữ “anh em” nói trên theo nghĩa thiêng liêng, chứ không theo nghĩa đen (literal meaning)
của từ ngữ, nên tin vững chắc rằng Đức Maria chỉ sinh có một Người Con
duy nhất là Chúa Giêsu nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, vì thế Mẹ
vẫn trọn đời đồng trinh như Giáo Hội dạy không sai lầm cho đến nay.
Thứ
hai - Liên quan đến vấn đề công chính hóa và ơn cứu rỗi, anh em Tin
Lành cho rằng con người đã mất hết khả năng hành thiện sau khi Adam sa
ngã, nên không thể làm được gì có giá trị công chính nữa.Do đó, chỉ còn
tin Chúa Kitô là được cứu rỗi mà thôi. Mọi có gắng của cá nhân không
thể làm cho con người trở nên công chính (justified) mà phải nhờ vào ơn thánh và tin Chúa Kitô, mới được cứu rỗi mà thôi.
Quan
điểm trên của anh em Tin Lành chỉ đúng một phần. Đó là cậy nhờ công
nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô, là công nghiệp vô giá, vì nếu không có
công nhiệp Chúa đã chịu đau khổ, đã bị đóng đanh và chết trên thập giá
để đền tội thay cho nhân loại, thì không ai có thể được cứu rỗi, vì “Ngoài
Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có
một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào
danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4 :12)
Nghĩa là nếu Chúa Kitô không xuống thế làm Con Người và “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20:28) thì không ai có thể làm gì để tự cứu mình và cứu người khác được. Đây là điều chúng ta phải tin chắc chắn như vậy.
Tuy
nhiên, dù công nghiệp cứu chuộc của Chúa cứu thế Giêsu và ơn của Thiên
Chúa là đủ cho ta được cứu rỗi, nhưng Thiên Chúa vẫn đòi con người
phải cộng tác vào ơn cứu độ đó bằng nỗ lực tin yêu Chúa và xa tránh mọi
tội lỗi, vì nếu không, thì ơn cứu chuộc vô giá kia của Chúa Kitô vẫn
sẽ trở nên vô ích như thường.
Thật vậy, bản chất con người, tuy bị băng hoại vì tội Nguyên Tổ (Origional Sin) và trở nên rất yếu đuối trước mọi cám dỗ của ma quỷ và dịp tội của thế gian, nhưng con người vẫn còn ý muốn tự do (Free will)
mà Thiên Chúa tôn trọng cho con người sử dụng để hoặc tự do chọn sống
theo đường lối của Chúa, hoặc theo thế gian tội lỗi để quay lưng lại
với Thiên Chúa là Cha nhân từ, “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2: 4)
Kinh
nghiệm bản thân của mỗi người chúng ta đủ chứng minh điều này: đó là
chúng ta không bị bó buộc phải yêu mến Chúa và làm việc lành phúc đức.
Chúng ta vẫn cảm thấy mình được tự do sống cho Chúa hay theo thế gian
vô thần, vô luân, vô đạo.
Cụ thể, ngày Chúa Nhật, có biết bao người Công Giáo đã tự ý không đi tham dự Thánh Lễ, để ở nhà coi football,
hay đi đánh bạc và du hí ở những nơi tội lỗi. Lại nữa, có biết bao
người tự do bỏ vợ, bỏ chồng, dù đã có con cái và sống chung với nhau
nhiều năm. Có vợ chồng còn thuê người khác giết vợ hay chồng của mình
để đi xây tổ ấm mới! Và còn biết bao người khác đã và đang làm những sự
dữ như giết người, gian manh, lường đảo, dâm ô, bài bạc , trộm cướp,
bóc lột … Nếu sống như vậy, thì họ nghe theo tiếng gọi của Chúa, nghe
theo tiếng lương tâm của họ hay theo thói đời hư đốn đồi trụy?
Chính
vì con người còn có tự do để làm sự lành sự thiện hay sự gian ác, tội
lỗi, nên đức tin phải được chứng minh cụ thể bằng hành động như Thánh
Giacôbê Tông Đồ đã dạy như sau: “Thưa anh em, ai bảo mình có đức
tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có
thể cứu người đó được chăng?” (Gc 2:14).
Cụ
thể, nếu tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà lại không thi hành những
lời Người dạy bảo về mến Chúa, yêu tha nhân, yêu mến sự thiện hảo, công
bình và bác ái, thì đức tin đó là “đức tin chết” theo lời dạy của Thánh Giacôbê (x. Gc: 12: 17).
Kinh
Thánh cho biết ông Abraham đã thể hiện đức tin và lòng mến yêu Thiên
Chúa của ông bằng hành động dám hy sinh con mình là Isaac, như Thiên
Chúa đòi hỏi để thử thách ông. Và ông đã chứng minh đức tin và đức mến
phi thường của mình khi đang định sát tế con một của ông, nên “Thiên Chúa kể ông là người công chính và ông được gọi là bạn của Thiên Chúa.” (Gc 2: 23)
Như
thế đủ cho thấy là đức tin cần được thể hiện cụ thể bằng hành động
theo gương ông Abraham và các Thánh Tử Đạo là những người đã dám đỏ máu
mình ra để tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô. Nhưng không phải chỉ đổ
máu ra mới minh chứng được đức tin. Ngược lại, bằng đời sống bình thường
trong gia đình và ngoài xã hội, người có đức tin vẫn có thể biểu lộ
đức bằng hành động cụ thể, như làm việc bác ái, nhẫn nhục, chịu đựng
và tha thứ cho người khác để minh chứng niềm tin sống động của mình
vào Thiên Chúa, là Cha nhân từ, đầy yêu thương và tha thứ. Trái lại,
nếu miệng tuyên xưng đức tin có Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành,
tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc nhân loại, nhưng chân lại bước vào
những con đường tội lỗi như cờ bạc, gian manh, lừa đảo, dâm ô ,trộm
cắp, giết người …thì dẫu có tuyên xưng đức tin hàng trăm ngàn lần ngoài
môi miệng cũng vô ích mà thôi. Chắc chắn như vậy.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa những lời sau đây:
“Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa, lậy Chúa, là được vào nước
trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên
trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7: 21)
Làm
theo ý muốn của Cha trên Trời, có nghĩa là thực thi những Điều Răn của
Chúa về yêu thương, công bình, bác ái và thánh thiện, nghĩa là thể
hiện đức tin bằng hành động cụ thể sao cho phù hợp với niềm tin có Chúa
là Cha ngự trên trời, là Đấng công minh thưởng phạt con người về những
việc mình làm trên trần thế này.
Mặt khác, nếu chỉ cần có đức tin là đủ cho được cứu rỗi như anh em Tin Lành rao giảng, thì tại sao Chúa Giêsu, qua dụ ngôn về Ngày Phán Xét Chung, lại nói với những người đứng bên phải Người như sau: “Nào
những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi …Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát các người đã
cho uống…” (Mt 25:34-35). Còn những kẻ đứng bên trái Người, Chúa cũng phán bảo họ rằng: “Quân
bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành
sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó, vì xưa Ta đói, các ngươi đã
không cho ta ăn; Ta khát các người đã không cho uống,.. Ta đau yếu và
ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom…” (cc. 41-42)
Khi
phán những lời trên với hai loại người đứng bên phải và bên trái, Chúa
Giêsu đã tự đồng hóa mình với những người nghèo đói, bệnh tật và tù
đày đang có mặt ở khắp nơi trên trần gian này. Nếu chúng ta thực thi
đức tin bằng đức ái nồng nàn để ra tay cứu giúp những anh chị em kém may
mắn đó, thì chúng ta đã thi hành bác ái với chính Chúa Giêsu đang hiện
diện nơi những người xấu số đó. Ngược lại, nếu chúng ta làm ngơ, hay
dửng dưng trước những đau khổ và nghèo đói của anh chị em đồng loại,
thì chúng ta đã nhắm mặt bịt tai để không nhìn, không nghe tiếng
Chúa đang kêu xin chúng ta nơi những người đau khổ, thiếu thốn, tù đầy,
và bệnh tật ở quanh mình.
Tóm lại, dụ ngôn Ngày Phán Xét Chung
đã hùng hồn nói lên sự cần thiết phải thể hiện đức tin bằng hành động
bác ái tương xứng để đáng được lãnh nhận ợn cứu chuộc của Chúa Kitô,
Đấng cũng vì yêu thương con người cách cụ thể mà đã “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20 : 28)
Như
vậy, chỉ tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô như anh em Tin Lành chủ
trương là chưa đủ, mặc dù là cần thiết. Cần thiết vì nếu không có công
nghiệp cực trọng của Chúa Kitô, thì không ai có thể tự sức mình làm
được gì để đáng được cứu rỗi. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, nếu chỉ tin
Chúa Kitô và nhờ ơn cứu chuộc của Người mà không làm gì hết về phần
mình; hay tệ hại hơn nữa, là cứ sống thù nghịch với thập giá của Chúa
Kitô bằng đời sống phản chứng, phạm những tội khiến Chúa đã bị đóng
đanh để đền thay cho, thì chắc chắn công cứu chuộc của Chúa Cứu Thế
Giêsu sẽ trở nên vô ích cho những ai cứ sống đức tin cách mâu thuẫn
như vậy.
Tóm
lại, ta không thể lợi dụng công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô và
không làm gì về phần mình để cộng tác với ơn cứu độ của Chúa. Đó là lý
do tại sao Giáo Hôi Công Giáo dạy con cái mình phải tin Chúa Kitô và
minh chứng niềm tin ấy bằng quyết tâm cải thiện đời sống dựa trên Tin
Mừng Cứu Độ và cụ thể hóa niềm tin bằng hành động bác ái theo tinh thần
dụ ngôn Ngày Phán Xét chung nói trên.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
Nguồn:http://tonggiaophanhue.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét