Chia sẻ Đề tài “Dạy Giáo lý trong môi trường tục hóa”
Chúng ta cùng nhau bước vào Năm
Đức Tin, nghĩa là cùng nhau đào sâu, củng cố, và thực hành đức tin trên bình
diện cá nhân và cộng đoàn, vì hiện tại đang có những khủng hoảng đức tin sâu xa
nơi nhiều người. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI có lý khi khẳng định: “Chúng
ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý
thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với
Giáo Hội ngày nay.” (Phát biểu tại Assisi nhân ngày cầu nguyện cho hòa
bình 27-10-2011). Theo Đức Thánh Cha, hơn bao giờ hết, con người cần có
Thiên Chúa; nếu không có Thiên Chúa, trần gian sẽ biến thành hỏa ngục.
Thực vậy, ngày nay, chủ nghĩa duy
vật (materialism), chủ nghĩa cá nhân (Individualism) chủ nghĩa tương đối
(relativism) cùng với chủ nghĩa hưởng thụ khoái lạc (Hedonism) ngày một bành
trướng ở khắp nơi để thách đố những ai còn niềm tin nơi Thiên Chúa là Đấng có
thật và vô cùng tốt lành, thánh thiện, nhưng rất chê ghét mọi tội lỗi, sự dữ,
sự độc ác và ô uế. Tất cả đều là con đẻ của chủ nghĩa tục hóa
(secularism).
Là những Giáo lý viên, những
người trực tiếp rao truyền Lời Chúa cho anh chị em mình, những người chuyển tải
Giáo lý Hội thánh Công giáo cho mọi người cần ơn cứu độ, chúng ta đang phải đối
diện với những thách đố lớn cho đời sống đức tin của các Kitô hữu, đặc biệt cho
những người trẻ, những người mà theo Đức cố Giáo hoàng Gioan Phao lô II trong
một lần gửi thư cho Bề trên Cả Dòng Don Bosco, nói rõ: “Không nên quên rằng
ở thời đại chúng ta, thế hệ trẻ vướng phải những cám dỗ và những hiểm nguy mà
các bậc cha anh của họ đã không biết đến, chẳng hạn như: ma túy, bạo động,
những cảnh thiếu nết na nơi những chương trình chiếu phim và truyền hình, những
thứ văn chương và hình ảnh khiêu dâm” (Trích Sr. Ngọc Tâm, FMA, Nội san
Chia sẻ Thần học - Mục vụ - Tu đức Liên Tu sĩ thánh phố, số 46, tháng 6 năm
2005, tr 61)
Bởi đó,
tìm hiểu chủ nghĩa thế tục hóa này là điều quan trọng, cần thiết nếu muốn
hiểu rõ và tìm ra cách thế để củng cố, đào sâu và thực hành đức tin trong giai
đoạn hiện tại.
Như vậy,
rõ ràng chúng ta có hai vấn đề chính sau đây:
I - Thế nào là môi trường tục
hóa?
II - Phải dạy giáo lý như thế nào
trong môi trường đó ?
I - Thế nào là môi trường tục hóa?
1 - Nhận định: Đức Cha
Giuse Nguyễn Năng, Giám mục Giáo phận Phát Diệm, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng của Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam (HĐGMVN), là tham dự viên của Hội nghị Thượng Hội đồng Giám mục
(THĐGM) Thế giới Thường kỳ lần thứ 13 diễn ra tại Roma từ ngày 7-10 đến
28-10-2012 về chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”.
Ngài nhận định như sau:
"Hoàn cảnh của thế giới hôm nay là những
thách đố lớn cho đời sống đức tin của các Kitô hữu. Rất nhiều tín hữu tuy không
chối bỏ đức tin nhưng đã trở thành dửng dưng thờ ơ với đời sống đạo, xa lìa
Giáo hội, sống theo tinh thần thế gian chứ không qui chiếu về các giá trị đạo
đức của Phúc Âm."
Đức Cha Giuse nói tiếp: "Do ảnh hưởng
toàn cầu hóa, não trạng tục hóa đang lan rộng khắp nơi trên thế giới, ngay cả
tại các nước châu Á vốn quí trọng tôn giáo, nhưng ngày nay Thiên Chúa cũng đang
bị loại dần khỏi đời sống người dân.
Châu Á chiếm tới 60% dân số hoàn cầu, trong
đó Trung Quốc và Ấn độ chiếm 37% dân số thế giới, nhưng các Kitô hữu chỉ chiếm
2% dân số. Ngày xưa, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử để lại 99 con
chiên trong đàn để đi tìm một con chiên lạc; nhưng ngày nay tại nhiều cộng
đoàn, chỉ có một con chiên trong đàn, còn 99 con đang đi lạc."
Như vậy đại nạn tục hóa đang ngày càng gia tăng và bành trướng
mãnh liệt, là một thách đố lớn cho công cuộc phúc âm hóa, bởi vì tục hóa hoàn
toàn đi ngược lại với tinh thần phúc âm, đi ngược lại với đức tin và luân lý
của Kitô giáo.
2 - Vậy tục hóa (secularism) là gì?
2.1 - Phong trào thế tục hoá (sécularisation hay laicisation)
diễn ra trong xã hội Tây phương vào khoảng thế kỷ XIX cho tới đầu thế kỷ XX tại
các nước Kitô giáo Âu Châu, và ngày nay đang lan rộng trong mọi tầng lớp xã
hội, ngay cả trong giới công giáo, như là hiện tượng chung của tất cả những gì
loại bỏ tôn giáo, loại bỏ thế giới thần thiêng, mầu nhiệm ra khỏi đời sống cá
nhân, gia đình và xã hội; và đề cao những gì do con người hoặc do lý trí, khoa
học, kỹ thuật của con người tạo ra.
Trong xã hội bị ảnh hưởng mạnh
của tục hoá, những gì là thiêng thánh không còn được tin cách dễ dàng nữa. Sự
sa sút niềm tin vào Thiên Chúa và vào các mầu nhiệm ngày càng nặng nề, nhất là
khi đời sống đạo còn non nớt do hiểu biết giáo lý nông cạn và đời sống nội tâm
cầu nguyện chưa hình thành hoặc chỉ dừng ở mức độ hời hợt bên ngoài.
2.2 - Đồng
thời, một khi niềm tin vào những gì là thiêng thánh càng suy giảm thì những gì
thuộc trần tục, có thể đụng chạm, nhìn thấy được lại càng được coi trọng. Bởi
vậy, nơi một số tín hữu, những tiêu chí lựa chọn, đánh giá thường mang tính
thực dụng, nghĩa là có tính cách vật chất, trần tục. Ví dụ giữa việc đi học
giáo lý và đi học thêm văn hóa, họ chọn học thêm, vì nó dễ mang đến bằng cấp
địa vị; giữa việc đi làm từ thiện, bác ái, và đi uống cà phê, picnic...họ chọn
điều thứ hai vì nó thoải mái hơn, ít hy sinh hơn...
Từ những lựa chọn theo tục hoá,
đức tin sẽ dần dần sa sút, yếu kém, và nếu còn, thì cũng chỉ là một đức tin
"không có việc làm là một đức tin chết" (Gc 2,17).
Mới đây, có bài viết phân
tích sự sai lầm của một bà mẹ trẻ. Hôm đó, ngày Chúa Nhật, buổi chiều, đứa con
có giờ học Giáo lý. Nhưng vì sáng mải chơi, chưa làm bài tập tiếng Anh cho giờ
học thêm, nên đứa bé phải ở nhà làm, không đi học Giáo lý. Khi được hỏi lý do,
bà mẹ trả lời vì chưa làm bài tập nên em phải ở nhà, không đi học Giáo lý được.
Lý do bà mẹ đưa ra là do lỗi của đứa bé ham chơi không làm bài. Nhưng thực ra,
lý do sâu xa chính là nơi người mẹ. Người mẹ đã chọn lựa một bậc thang giá trị
theo tinh thần tục hoá.
Câu chuyện trên là một minh chứng
về sự đảo lộn các giá trị đạo đức. Thực tế, thậm chí có khi bậc cha mẹ còn đặt
giá trị của việc học Giáo lý, tức giá trị tôn giáo dưới cả những việc không
quan trọng như việc học võ, học bơi lội nữa. Người ta có thể ưu tiên cho con
cái đi học nhiều môn như văn, toán, sinh, vi tính… nhưng không bao giờ ưu tiên
cho môn Giáo lý.
Bậc cha mẹ có một đánh giá sai
lạc về giá trị tôn giáo, về đức tin thì đức tin họ truyền dạy cho con cái sẽ là
đức tin thế nào?
2.3 - Đàng
khác, khi đánh mất niềm tin vào một Đấng Tạo Hóa đang điều khiển vũ
trụ và số phận của mỗi con người theo một trật tự đầy khôn ngoan,
công bình và yêu thương, hậu quả trông thấy của chủ nghĩa tục hóa nói trên
là con người ngày một tụt hậu về ý thức đạo đức, chỉ sống trong hận thù,
ghen ghét, chém giết và khủng bố, hoặc rơi vào tình trạng nghiện ngập
ma tuý, nhiễm HIV vì không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, chán chường với hiện
tại, với gia đình, xã hội. Nhiều người trẻ ngày nay ra sức chạy đua với tiền
tài, địa vị, kiến thức, danh vọng xã hội để lấp đầy cuộc sống của mình. Bây
giờ, vật chất đối với họ là trên hết, nên hậu quả là họ bỏ bê, chểnh mảng bổn
phận chăm lo đời sống thiêng liêng, một điều rất cần thiết cho đời sống tâm
linh của người mang danh là kitô hữu.
Trong một xã hội xuống dốc, đạo
đức vắng bóng và khủng hoảng niềm tin đó, dĩ nhiên đồng tiền được lên ngôi. Nhà
văn Nguyễn Việt Hà đã khẳng định: “Muốn biết rõ về ai, nên nhúng người ấy
nhiều lần vào dung dịch đồng tiền. Cái thứ dung dịch siêu thặng này làm trôi đi
tất cả những màu mè bọc ngoài. Đạo mạo trở nên hau háu lỗ mãng, dịu dàng trở
nên chua ngoa cướp giật…Lịch sử nhân loại chứng kiến số người tự tử vì tiền gấp
tám lần số người tự tử vì tình, có phải thế mà thời đại chúng ta hết những nhà
đạo đức thật.”
(http://www.giaophanvinhlong.net/Bai-14-Mot-vai-thach-do-ve-viec-day-giao-ly.html)
2.4 - Và rồi,
vì thiếu niềm tin đó, hay chối bỏ niềm tin ấy để tự vạch lấy con đường
đi riêng cho mình, nên người ta đã mặc sức sống chung với sự dữ,
sự tội trong đời sống cá nhân hay trong cộng đồng xã hội.
Chẳng hạn
người ta thay vì xem quan hệ nam nữ là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người để
trao hiến và nên một với nhau, nhờ đó mà yêu thương nhau và sinh sản con cái,
thì họ chỉ coi đó như một lạc thú, chỉ tìm hưởng thụ để thỏa mãn chính mình.
Người ta cũng không coi gia đình
là thiêng liêng nữa, nên thích nhau thì ở, không thích thì bỏ đi, mặc con cái
ra sao thì ra.
Không những
thế, không mấy cha mẹ còn muốn mang gánh nặng nuôi con, nên hoặc triệt sản,
ngừa thai, hay trót mang thai rồi thì phá bỏ một cách không thương tiếc.
2.5 - Ngoài
ra, một thế giới tục hoá gắn liền với một xã hội tiêu thụ. Tiêu thụ và tiện
nghi thực ra không phải là điều xấu, đáng lên án.
Tuy nhiên, khi đời sống vật chất,
tiện nghi trở thành mục đích cuối cùng của con người, trở thành hố ngăn cách
giữa người nghèo và người giầu, trở thành một lối sống ích kỷ, hưởng thụ cho
mình mà quên chia sẻ cho những người bất hạnh hơn, nghèo khổ hơn, "như một
ốc đảo xa hoa giữa một đại dương nghèo đói" thì tiêu thụ tiện nghi đó đáng
lên án.
Tông huấn "Những mục tử như
lòng Chúa mong ước" của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (ban hành ngày
25/3/1992 . Số 8), cho biết:
"Cái mà người ta gọi
là “xã hội tiêu dùng” mê hoặc những người trẻ một cách dữ dội, làm cho họ trở
thành nạn nhân và tù nhân của một lối giải thích cuộc hiện hữu con người mang
tính chất duy cá nhân, duy vật và duy khoái lạc ! Quan niệm “sống thoải mái”
hiểu theo nghĩa vật chất có khuynh hướng trở thành lý tưởng độc nhất của cuộc
đời, một lối “sống thoải mái” phải đạt được với bất cứ điều kiện nào và với bất
cứ giá nào. Hiệu quả là từ chối mọi hy sinh, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống
những giá trị tinh thần và tôn giáo. Mối “quan tâm” độc chiếm về cái sở hữu dành
chỗ cái ưu việt là hiện hữu ; và, từ đó, các giá trị nhân vị và liên vị không
được cắt nghĩa và sống theo luân lý của ơn huệ, của tính nhưng không, nhưng
theo luân lý của sự chiếm hữu ích kỷ và sự bóc lột kẻ khác."
Và dĩ nhiên,
sự tôn thờ vật chất, tiền của, tiện nghi của xã hội tiêu thụ luôn làm đức tin
suy giảm nghiêm trọng, đánh mất tình tương thân tương ái, tối lửa tắt đèn có
nhau, cuộc sống vô cảm ngày càng lên ngôi! Như vậy, mọi giá trị đạo đức và
luân lý bị đảo lộn, những cái xấu, cái sai, cái không bình thường trở nên bình
thường.
“Trong tay đã sẵn đồng tiền - Dẫu
rằng đổi trắng thay đen khó gì.”
Đạo đức suy thoái, lương tâm
và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực
trạng xã hội:
“Nhân phẩm ngày nay giảm
giá rồi, Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,
Lương tâm bán rẻ hơn
lương thực, Chân lý chân giò một giá thôi.”
Sống trong môi trường như thế,
nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình
thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng
lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.
Đứng trước những thách đố và nguy
hại do chủ nghĩa tục hóa gây nên, người Kitô hữu phải sống như thế nào để có
thể thực thi lời dạy của Thánh Phaolô căn dặn các tín hữu ở Philip xưa?
“Anh em sẽ trở nên
những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa
thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là
làm sáng tỏ Lời ban sự sống…” (Pl 2,15-16)
II - Phải dạy giáo lý như thế nào trong môi
trường tục hóa ?
1 - Nhận định của THĐGM lần thứ 13 về Tân
Phúc Âm hóa
Phong
trào tục hóa và những hệ lụy của nó tác động nặng nề trên Đức tin, làm cho Đức
tin bị suy giảm và lung lạc, đi đến chỗ chết dần chết mòn. Đối diện với nền văn hoá tiêu thụ, ích kỷ, bạo động và
chết chóc như thế,
- THĐGM khẳng định: "Trong bối cảnh ấy, các môn đệ Đức
Kitô không được sợ hãi. Bao nhiêu thách đố phải là bấy nhiêu cơ hội mới để loan
báo Tin Mừng. Nghĩa vụ của chúng ta là phải khắc phục sợ hãi bằng đức tin,
chiến thắng sự hèn nhát bằng niềm hy vọng, và sự dửng dưng lãnh đạm bằng tình
yêu. Lòng can đảm thanh thản ấy cũng ảnh hưởng đến cái nhìn của chúng ta về thế
giới ngày nay. Chúng ta không cảm thấy nhát sợ vì những hoàn cảnh chúng ta đang
sống. Thế giới chúng ta đầy những mâu thuẫn và thách đố, nhưng vẫn là công
trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thế giới này tuy bị tổn thương vì sự ác, nhưng
vẫn luôn được Thiên Chúa yêu thương. Thế giới này là một cánh đồng trong đó có
thể canh tân việc gieo vãi Lời Chúa để tái mang lại hoa trái.
Không có chỗ đứng cho sự bi quan trong tâm
trí những người biết rằng Chúa đã chiến thắng sự chết và Thánh Linh của Chúa
hoạt động mạnh mẽ trong lịch sử. Với lòng khiêm tốn và quyết tâm, một thái độ
đến từ xác tín sự thật sau cùng sẽ chiến thắng, chúng ta đến với thế giới này
và muốn thấy trong đó một lời mời gọi của Thiên Chúa trở thành chứng nhân về
Danh Thánh của Ngài. Giáo hội chúng ta sinh động và, với niềm can đảm của đức
tin và chứng tá của bao nhiêu con cái mình, Giáo hội đương đầu với những thách
đố do lịch sử đề ra.” (Sứ điệp THĐGM 2012, ss. 5-6)
- Đức Cha
David Ricken Chủ tịch Ủy ban Phúc Âm Hóa và Dạy Giáo Lý của Hoa Kỳ tuyên bố:
"Mặc dù trong một giáo phận,
Đức Giám Mục là Giáo Lý Viên chính cho toàn thể giáo phận, và trong một giáo
xứ, cha xứ là Giáo Lý Viên chính. Nhưng các ngài không thể làm việc đó một
mình, các ngài cần các Giáo Lý Viên chia sẻ trách nhiệm này với các ngài. Các
Giáo Lý Viên là những người được Hội Thánh ủy thác cho việc trực tiếp giảng dạy
và truyền đức tin của Hội Thánh lại cho các học viên của họ, dù là người lớn
hay trẻ em. Thực ra, các Giáo Lý Viên là những người mở cánh cửa đức tin cho
người khác. Đây là một đặc quyền và cũng là một thách đố cho tất cả chúng ta.
(http://www.usccb.org/beliefs-and-teachings/how-we-teach/catechesis/catechetical-sunday/year-of-faith/index.cfm)
2. Việc
dạy Giáo lý cần được canh tân không ngừng
Công cuộc
Phúc Âm hóa được gọi là mới, hoặc cần được đổi mới, vì các Kitô hữu đang sống
trong một bối cảnh xã hội mới. Thế giới ngày nay có nhiều thay đổi sâu xa,
nhiều hoàn cảnh đặc thù khác nhau . Do đó, Việc dạy Giáo Lý luôn luôn cần được
canh tân cùng với từng biến chuyển lớn của thời đại và xã hội, nhờ đó, Lời
Chúa được diễn đạt đúng hơn, rõ hơn, sống động và hợp thời hơn.
Chính
Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ 4 năm 1977 đã khẳng định trong Tông Huấn
Catechesi Tradendae:
Việc canh
tân Giáo Lý là một ân huệ quý giá của Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội ngày nay
(CT 3).
Việc dạy Giáo Lý cần được canh tân liên tục và quân bình
về phương pháp, về việc tìm kiếm một ngôn ngữ thích hợp, về việc khai thác các
phương tiện mới mẻ để truyền thông sứ điệp (CT 17).
Giáo Hội
phải tỏ ra khôn ngoan, can đảm và trung thành với Tin Mừng trong việc tìm kiếm
và vận dụng các đường lối và bối cảnh mới mẻ cho việc dạy Giáo Lý (CT 17).
Thêm vào
đó, giáo lý viên cần được huấn luyện không ngừng về sư phạm và những kỹ năng
chuyên môn để có thể canh tân liên tục và quân bình... trong việc truyền đạt
nội dung giáo lý.
Thế nhưng:
a - Điều canh tân đầu tiên
và quan trọng nhất là phải làm mới lại nhiệt tình truyền giáo.
"Trước hết và trên hết,
những sứ giả mới của Tin Mừng cần phải có một đức tin sống động:
- một đức tin được xây dựng trên
niềm vui cuộc gặp gỡ sâu xa - cá vị và có có sức biến đổi với con người sống
động của Đức Giêsu Kitô.
- một cuộc gặp gỡ đem lại hiệu
quả là bản thân được hoán cải và trở nên môn đệ của Chúa Kitô trong lời nói và
việc làm.
Tóm lại, chúng ta loan báo Đấng
mình đã thấy, đã nghe, đã chạm đến ( x.1Ga 1,1-3). (Sứ điệp Hội nghị toàn thể
lần thứ X của Liên Hội đồng giám mục Á châu họp tại Xuân lộc)
Cũng vậy, rất nhiều nghị phụ tại
THĐGM lần thứ 13 đã nhấn mạnh điều này. Các Kitô hữu cần làm mới lại đời
sống Kitô hữu: “xuất phát lại từ Đức Kitô”, khám phá vẻ đẹp và sự mới mẻ ngàn
đời của Đức Kitô, để nhờ đó làm cho tương quan giữa bản thân với Đức Kitô được
sống động và chi phối toàn thể cuộc sống hằng ngày. Chỉ khi nào “ở lại” trong
Chúa, đời sống Kitô hữu mới trổ sinh hoa trái. Đó là điều kiện sinh tử.
“Mỗi tín hữu kitô, nhất là chúng
ta, chúng ta được mời gọi đem sứ điệp hy vọng trao ban sự thanh thản và niềm
vui: sự ủi an của Thiên Chúa và sự hiền dịu của Người cho tất cả mọi người.
Nhưng chúng ta sẽ chỉ là những người đem tin vui, nếu trước tiên sống niềm vui
được Chúa an ủi và được Ngài yêu thương. Đây là điều quan trọng để cho sứ mệnh
của chúng ta được phong phú: cảm nghiệm sự an ủi của Thiên Chúa và thông truyền
nó" (ĐTC Phanxicô bài giảng Chúa nhật ngày 7.7.2013)
Như vậy, việc đọc và suy gẫm Kinh
Thánh mang tầm mức hết sức quan trọng, vì ở đó ta gặp gỡ Chúa Giêsu, khám phá
dung mạo của Ngài, đồng thời học được những kinh nghiệm truyền giáo của chính
Chúa Giêsu và các tông đồ trong Giáo hội sơ khai: các môn đệ đầu tiên, người
phụ nữ Samaria, ông Giakêu, sĩ quan Roma, ông Cornêliô, vv.
b - Lời cầu nguyện và cuộc
sống kết hiệp với Chúa Kitô bảo đảm sự phong phú của sứ mệnh rao truyền Tin
Mừng
Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài
giảng thánh lễ cử hành sáng ngày 7.7.2013 đã khẳng định cách xác tín:
"Các bạn hãy là những
người của đời cầu nguyện. Hãy vun trồng chiều kích chiệm niệm cả trong cơn lốc
của các dấn thân cấp bách nhất. Việc phổ biến Tin Mừng không được bảo đảm bởi
số người, hay uy tín của cơ cấu, hoặc phẫm chất các tài nguyên có được, nhưng
bởi sự thấm nhập và kết hiệp sâu thẳm với Chúa Kitô. (ĐTC Phanxicô - ngày
7.7.2013)
“Anh chị em hãy luôn luôn là
những người của lời cầu nguyện. Không có tương quan liên lỉ này với Thiên Chúa
sứ mệnh trở thành một nghề"..
"Sứ mệnh càng mời gọi
các bạn đi ra vùng ngoại ô cuộc đời bao nhiêu, thì con tim các bạn lại càng
phải kết hiệp với con tim tràn đầy thương xót và tình yêu của Chúa Giêsu bấy
nhiêu. Đó chính là bí mật của sự phong phú mục tử, của sự phong phú của một môn
đệ Chúa.”
"Chúng ta đã nghe
Chúa nói trong Phúc Âm: “Các con hãy cầu xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”
(Lc 10,2). Các người thợ đã không được chọn qua các chiến dịch quảng cáo hay
kêu gọi phục vụ quảng đại, nhưng được Thiên Chúa “chọn” và ”sai đi”. Chính
Người tuyển chọn, chính Người sai đi, chính Người ban sứ mệnh. Vì
thế cầu nguyện quan trọng"
Chân phước Gioan Phaolô II khẳng định: “Một ngọn lửa chỉ có thể được thắp lên bởi chính một vật đang cháy lửa… (chúng ta) phải cháy lửa tình yêu Chúa Kitô và lửa nhiệt thành mong ước làm cho Đức Kitô được nhiều người nhận biết hơn, yêu mến hơn, bước theo sát Người hơn”(Tông huấn Ecclesia in Asia, số 23)
Lời Thánh Phaolô: “Tình yêu Ðức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 14) lay động cõi lòng chúng ta hãy chia sẻ tình yêu khôn sánh của Chúa Giêsu cho toàn thể thế giới.
c - Đời sống thánh thiện
Người loan
báo Tin Mừng phải có một đời sống thánh thiện nhờ sự hoán cải không ngừng để
trở thành chứng nhân sống động của Tin Mừng. Đời sống thánh thiện là điều kiện
tiên quyết cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong giai đoạn mới.
Sứ điệp THĐGM về "Tân Phúc
Âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo" nhấn mạnh:
“Chúng ta không bao giờ được nghĩ
rằng việc tân Phúc Âm hóa không liên can trước tiên tới chính chúng ta….Lời mời
gọi rao giảng Tin Mừng được diễn tả qua lời kêu gọi hoán cải.”
….“Chúng ta hãy tin chắc rằng
chúng ta phải là những người trước hết cần phải hoán cải, cần phải trở về với
quyền năng của Chúa Kitô, là Đấng duy nhất có thể đổi mới mọi sự, nhất là đổi
mới cuộc sống nghèo nàn của chúng ta. Với lòng khiêm tốn chúng ta phải nhìn
nhận rằng sự nghèo nàn và yếu đuối của các môn đệ Chúa Giêsu, đặc biệt là nơi
các thừa tác viên của Ngài, đè nặng trên uy tín của việc truyền giáo. ”(Sứ
điệp s. 5)
d - Từ củng cố Giáo lý đến
đồng hành và yêu mến Giới trẻ
Ngày nay, trước những thách đố về
đời sống đức tin, Giáo hội cần có sự hướng dẫn đúng đắn, phù hợp với tâm thức
của người trẻ trong thời đại mới, nhằm giúp họ can đảm bước tiếp trong cuộc
đời. Đây chính là điều Giáo hội cần thực hiện, vì nó thuộc về lãnh vực giáo dục
của Giáo hội, một nền giáo dục mang bản sắc Kitô giáo. Chính Công đồng Vatican
II cũng khẳng định: “Giáo hội có trách nhiệm giáo dục, không những vì Giáo
hội cũng là xã hội trần gian (…), nhưng nhất là vì Giáo hội có nhiệm vụ loan
truyền cho mọi người biết con đường cứu rỗi, cũng như thông ban sự sống Chúa
Kitô cho các tín hữu…” (Vat II, Tuyên ngôn về giáo dục Kitô giáo, số 3..)
Từ củng cố Giáo lý …
Đối với người trẻ, hơn bao giờ
hết, đây là giai đoạn khủng hoảng về đức tin và gặp nhiều khó khăn trong lãnh
vực luân lý. Vì vậy, điều quan trọng đầu tiên, có thể nói như vậy, Giáo hội cần
giảng dạy để người trẻ nắm vững về giáo lý của Giáo hội. Từ đó, họ có được “kim
chỉ nam” hướng dẫn cuộc sống.
Bởi lẽ, “Việc giảng dạy giáo
lý nhằm soi sáng và củng cố đức tin, nuôi dưỡng đời sống theo tinh thần Chúa
Kitô, đưa đến việc ý thức và tham dự linh động vào mầu nhiệm phụng vụ,
khuyến khích hoạt động tông đồ” (Vaticano II, Tuyên ngôn về giáo dục Kitô
giáo, số 4).
Như vậy, Giáo lý đóng vai trò
quan trọng trong đời sống của người Kitô hữu nói chung, và cách riêng là các
bạn trẻ. Hiểu đúng đắn và vững chắc về Giáo lý chính là nền tảng giúp người trẻ
đi vào đời sống xã hội, thể hiện được niềm tin và căn tính của mình.
… Đến đồng hành và yêu mến
Bên cạnh
hướng dẫn đức tin để người trẻ trưởng thành trong cung cách sống đạo, thì cảm
thông, yêu mến và chia sẻ những âu lo, hy vọng với người trẻ là điều quan
trọng. Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói: “Con người là con
đường số một mà Giáo hội phải đắn đo khi thi hành chức vụ của mình” (Nội
san Chia sẻ Thần học- Mục vụ- Tu đức Liên Tu sĩ thánh phố, số 46, tháng 6 năm
2005, tr 59.)
Từ đó, chúng ta cũng có thể nói,
Giáo hội thi hành chức vụ của mình thì người trẻ chính là đối tượng cần được
quan tâm.
Chúng ta cần hiểu người trẻ không
chỉ ở ngoài bề mặt, nhưng với cõi lòng, với sự đam mê và dám đồng hành với họ.
Chúng ta cần có cái nhìn toàn diện về con người của họ chứ không đơn giản là
tìm cách cứu rỗi linh hồn họ. Ta cần có cái nhìn toàn thể, đa diện chứ không
phải nhìn trong tính đơn lẻ và phiếm diện. Chúng ta cần bước vào cuộc sống thực
tại của họ để tìm hiểu nghề nghiệp, môi trường sống, và ngay cả cách suy nghĩ
của họ.
Chỉ khi thực hiện điều đó, chúng
ta mới có thể bước đi cùng với người trẻ bằng chính thực tại cuộc sống của họ.
Khi đó, như lời của Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta sẽ tự hào nói
rằng: “Giáo hội rất yêu mến giới trẻ, không bao giờ và nhất là thời nay (…),
Giáo hội thấy mình được Chúa dắt tới để nhìn lại thế hệ trẻ với một tình thương
rất đặc biệt và niềm hy vọng, và hãy coi việc giáo dục là một trong những nhiệm
vụ chính của mình”. (Trích lại Sr. Ngọc Tâm, FMA, Giới trẻ: hồng ân-thách
đố, Nội san Chia sẻ Thần học- Mục vụ- Tu đức Liên Tu sĩ thánh phố, số 46, tháng
6 năm 2005, tr 59.)
Đó là con đường chung của Giáo hội toàn cầu, mà Đức Gioan Phaolô
II đã thực hiện một cách triệt để trong triều đại Giáo hoàng của ngài. Hơn bao
giờ hết, các vị chủ chăn nên là những người dẫn đầu, luôn thể hiện tấm lòng yêu
mến dành cho người trẻ. Đây cũng có thể coi là cách thế tốt nhất để Giáo hội
đồng hành với người trẻ, giúp họ vượt qua những khủng hoảng về đời sống đức
tin, nhất là trong hoàn cảnh xã hội hiện nay.
Tóm: Thế giới
tục hóa muốn gạt bỏ Thiên Chúa, nhưng tận sâu xa, đó lại là một sự trống rỗng
to lớn khao khát được lấp đầy bằng chân lý và tình thương của Thiên Chúa. Nhân
loại khao khát nước đem lại sự sống, nhưng thế giới lại có quá nhiều nguồn nước
đục ô nhiễm (x. Sứ điệp s.1). Công cuộc tân Phúc Âm hóa đòi chúng ta
dấn thân nhiều hơn nữa để giới thiệu Chúa Giêsu là nước hằng sống đích thực cho
con người.
Kết: câu
chuyện CON HÃY LÀ BÀN TAY CỦA CHA
Câu
chuyện xảy ra tại một thành phố nhỏ nước Pháp vào thời Đệ Nhị Thế Chiến. Một
anh lính đi ngang qua một ngôi nhà thờ đã bị tàn phá vì chiến tranh. Khi bước
qua những đống gạch vụn nằm ngổn ngang trên nền nhà, anh cố gắng hình dung ra
hình ảnh của ngôi thánh đường trước khi bị đổ nát. Anh đưa mắt nhìn quanh và
bắt gặp một pho tượng vẫn còn đứng vững. Đến gần hơn để nhìn cho kỹ và anh nhận
ra đó là pho tượng Chúa Giêsu với hai cánh tay giang rộng như muốn ôm cả thế
giới. Pho tượng vẫn còn nguyên vẹn, chỉ trừ đôi bàn tay bị gãy. Trầm lặng một
vài phút trước bức tượng sứt mẻ đó, bỗng dưng anh cảm thấy như có tiếng Chúa
nói với anh: “Từ nay con hãy là bàn tay của Cha.” Cảm động trước lời mời gọi
đó, anh liền lấy một viên đá, viết hàng chữ ấy trên một tấm gỗ và đặt dưới chân
pho tượng Chúa Giêsu.
Như ngôi
nhà thờ kia bị tàn phá và đổ nát vì chiến tranh, biết bao tâm hồn con người
ngày nay cũng đang bị tan nát và mất mát trước cám dỗ và những ảnh hưởng không
tốt của một thế giới sa đọa, cả những tâm hồn tan nát vì thiếu tình thương của
gia đình và của những người thân. Đứng trước những tình cảnh này, Chúa Kitô
đang kêu mời chúng ta để trở thành những đôi tay của Chúa, giúp xây dựng lại
ngôi đền thờ của Ngài trong tâm hồn của mỗi con người hôm nay.
Chúng ta
hãy là bàn tay của Chúa để xoa dịu những khổ đau của người trẻ đang bị hắt hủi
và thiếu tình thương.
Hãy là
đôi chân của Chúa Kitô, để đồng hành với những tâm hồn đang gặp khó khăn về
tinh thần.
Hãy là
đôi mắt của Chúa Kitô, để thấy và cảm thông được nỗi thống khổ của những kẻ
không nhà.
Hãy là
đôi tai của Chúa Kitô, để nghe được những tiếng khóc cô đơn của những người vô
gia đình và bị xã hội ruồng bỏ.
Hãy là
con tim của Chúa Kitô, để yêu thương hết mọi người.
Hãy là
chính Chúa Kitô sống động nơi môi trường chúng ta đang sống: ngoài đương phố,
nơi trường học, trong gia đình và ngay cả những nơi ồn ào, xáo trộn nhất trong
xã hội.
Chúng ta
hãy dừng lại để nhận ra Chúa Kitô trong mọi người và mọi biến cố của cuộc đời,
như câu chuyện của cậu bé bán báo dưới đây:
Có rất
nhiều người đang đợi xe điện tại một trạm kia. Ai cũng hối hả mong cho tới nơi
mình muốn đến. Khi xe vừa dừng bánh, người ta chen lấn, đổ xô về phía cửa xe.
Trước sự hỗn loạn đó, người ta đã làm ngã một em bé đang đứng bán báo gần cửa
xe, những tờ báo trên đôi tay bé nhỏ của em rơi hết xuống đất. Trong những
người chen chúc nhau trên xe có một người khá đứng tuổi, ăn mặc rất lịch sự.
Mặc dù cũng vội vã, ông đứng lại để nhìn em bé, và ông nhận ra là em bé bán báo
bị mù. Ông nói lời xin lỗi và cúi nhặt từng tờ báo lên cho em mà không quan tâm
đến việc mình sẽ lỡ mất chuyến xe. Biết ơn cử chỉ tốt của ông, em bé hỏi: “Ông
có phải là Chúa Giêsu không?”.
Ước gì
qua những suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta, người ta sẽ nhận ra được
Chúa Kitô đang sống động trong con người của chúng ta, kể cả những người bị mù
với con mắt Đức Tin.
Thánh
Têrêsa D’Avila:
Chúa Kitô
bây giờ chẳng có thân xác, ngoại trừ thân xác của bạn, Không tay, không chân
trên quả đất này, ngoại trừ tay chân của bạn. Qua đôi mắt của bạn, người nhìn
và đem sự nhân từ của Người đến cho thế giới. Qua đôi chân của bạn, Người đi
làm chuyện lành. Qua đôi tay của bạn, Người chúc phúc cho cả thế giới. Tay của
bạn là tay của Người, Chân của bạn là chân của Người, Mắt của bạn là mắt của
Người. Bạn là thân thể của Người. Chúa Kitô bây giờ chẳng có thân xác, ngoại
trừ thân xác của bạn, Không tay, không chân trên quả đất này, ngoại trừ tay
chân của bạn. Qua đôi mắt của bạn, Người nhìn và đem sự nhân từ của Người đến
cho thế giới. Chúa Kitô bây giờ chẳng có thân xác trên mặt đất, ngoại trừ thân
xác của bạn.
LỜI
NGUYỆN CỦA GIÁO LÝ VIÊN:
Lạy Chúa,
Chúa đã chọn các Tông Đồ và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cho muôn
dân, như xưa Chúa đã dùng các Tổ Phụ và các Tiên Tri, để loan báo các thánh chỉ
của Chúa.
Xin Chúa
hãy đón nhận chúng con là những giảng viên giáo lý, để chúng con đem Lời Chúa
cho mọi người. Cho chúng con biết can đảm để dấn thân, khiêm tốn để học hỏi, và
quên mình để phục vụ.
Xin cho
chúng con biết dùng lời nói và hành động, để làm chứng cho đức tin mà chúng con
đang rao giảng.
Ước gì
qua chúng con, Chúa được nhận biết và yêu mến. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét