TƯ
TUỞNG XÃ HỘI CỦA ĐỨC BÊNÊĐICTÔ
TRONG
THÔNG ĐIỆP CARITAS IN VERITATE
Đức Cha Michel Schooyans
Giáo sư Université Catholique de Louvain
Thành viên sáng lập Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng
các khoa học xã hội
Cố vấn Hội Đồng Giáo Hoàng về các gia đình
Thông
điệp Caritas in veritate là một trong bộ ba thông điệp mà Đức Bênêđictô
XVI đã liên tục hiến tặng cho chúng ta: Deus caritas est năm 2005, Spe
salvi năm 2007. Trong ba đại văn bản này, Đức Bênêđictô đã lấy lại mà không
bao giờ lập lại một chủ đề chính có nơi các văn kiện trước đó. Ta có thể đúc
kết ngắn gọn điều trọng tâm này như sau: Con người chỉ có thể thực hiện trọn
vẹn chính mình khi mở lòng ra với Thiên Chúa. Điều này đúng đối với hoạt
động cá nhân cũng như các hình thức hoạt động xã hội. Không có Thiên Chúa, con
người rơi vào chủ nghĩa tương đối (relativisme) và mất đi cọc tiêu hướng dẫn
cần thiết cho hoạt động của mình. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguyên
tắc cho những mối tiểu tương giao cũng như những quan hệ rộng lớn hơn. Tình yêu
phải bén rễ sâu trong chân lý để rực sáng lên: chân lý mà ngọn lửa nhỏ của nó
luôn cháy sáng trong lòng mỗi người, chân lý mà Thiên Chúa tặng ban cho con
người khi mạc khải chính mình cho họ, khi nói với họ, khi đến để sẻ chia hiện
hữu với họ. Trong một nền văn hoá không có chân lý, tình yêu chạm mặt với nguy
hiểm chết người: nó có nguy cơ biến thành một vỏ ốc trống rỗng sẵn sàng bị lấp
đầy bởi bất cứ thứ gì cũng được. Tình yêu không chân lý dẫn đưa đến khuynh
hướng duy cảm (sentimentalisme); chân lý không tình yêu đưa dẫn đến một nền kỹ
thuật không có tâm hồn. Đó là điều chính yếu!
Thông điệp là gì?
Thông
điệp là một thư luân lưu mà Đức Giáo Hoàng gởi cho toàn thể tín hữu và những
người thiện chí. Trong thư của mình, các vị giáo hoàng đương đại đã đề cập đến
những vấn đề thời sự, chẳng hạn như giáo dục, hôn nhân, phụng vụ, những ý thức
hệ hiện đại, etc. Từ thời Đức Lêô XIII (1810-1903), có khoảng hai mươi thông
điệp đã đề cập đến những vấn đề xã hội. Cũng nên đặc biệt lưu ý đến Hiến
chế Mục vụ Gaudium et spes, với đề tựa Giáo hội trong thế giới hôm
nay, được Công Đồng Vatican II ban hành năm 1965.
Khi
chuẩn bị viết một thông điệp, các giáo hoàng luôn mời các nhà cố vấn theo sự
lựa chọn của mình. Có hai cơ quan đặc biệt được mời làm cố vấn cho Đức Giáo
Hoàng khi ngài soạn thảo các thông điệp xã hội (tương ứng với các uỷ ban thường
trực). Trước hết phải kể đến Hội Đồng Giáo Hoàng Công Lý và Hoà Bình mà cơ cấu
đã được chỉnh đốn vào năm 1988, sau đó là Hàn Lâm Viện Giáo Hoàng về các khoa
học xã hội, được thành lập vào năm 1994, đứng đầu là bà Mary Ann Glendon, giáo
sư Phân khoa Luật của Đại Học Havard. Ngài cũng thường mời các nhà chuyên môn
và việc soạn thảo thường kéo dài trong nhiều năm.
Tính liên tục
Như
tất cả các thông điệp về xã hội, Caritas in veritate là một tài liệu nằm
trong bối cảnh lịch sử của thời đại mình. Đức Bênêđictô XVI muốn nói lên những
gì mà Giáo Hội chưa thực hiện được, còn mắc nợ bức thông điệp thời danh Populorum
progressio của Đức Phaolô VI viết vào năm 1967. Qua đó, Đức Bênêđictô nói
lên tính liên tục của giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Phải thường xuyên
nhắc lại giáo huấn này bởi vì trong vài năm qua, xã hội loài người đã tiến hoá,
toàn cảnh quốc tế đã thay đổi, các phương tiện phân tích trở nên hiệu năng hơn
và suy tư thần học cũng tiến triển.
Cách
nào đi nữa, tính liên tục này không phải là sự lập lại. Đức Bênêđictô đã tái
kích hoạt ý hướng sâu xa của các vị tiền nhiệm. Chẳng hạn, ngài không lập lại
những gì mà các vị tiền nhiệm có thể đã viết về lương bổng lao động, nhưng tra
vấn về cách mà vấn đề này đặt ra cho ngày hôm nay.
Nhận định mới
Những
vấn đề mà các vị giáo hoàng trước kia đề cập đến, ngày nay đòi hỏi một cách
nhận định mới. Vài ví dụ đủ để cho thấy những tiếp cận mà Caritas in
veritate đã triển khai chung quanh những vấn đề trong các thông điệp trước
kia.
1.
Từ năm 1968, ý thức con người cũng tạm tiến triển để tạo thành một đại cộng
đoàn. Sự tuỳ thuộc giữa con người với nhau và giữa các xã hội trở nên chặt
chẽ, hiểu biết nhau hơn; nhất là sát cánh bên nhau hơn bao giờ hết. Những cuộc
chiến tranh, thảm hoạ thiên nhiên, khủng hoảng tài chính mới đây – chỉ đan cử
ra vài ví dụ - cũng đã đưa đến việc phân tích nói lên sự toàn cầu hoá.
2.
Kế đó, Đức Giáo Hoàng giải thích rằng tương quan giữa các Nhà Nước đang biến
đổi. Vai trò của các quốc gia đang biến chuyển hướng ngoại (ad extra), nghĩa là
trên sân khấu quốc tế, và hướng nội (ad intra) trong mối liên hệ giữa Nhà Nước
và xã hội dân sự.
3.
Thông điệp cũng nhận thấy sự tiến hoá của các trung tâm quyết định kinh
tế trong đời sống quốc tế và trong đời sống các quốc gia. Vai trò mới này không
phải là không ảnh hưởng trên đời sống chính trị.
4.
Từ thời bức thông điệp lừng danh của Đức Phaolô VI, tự do tôn giáo thường bị
đàn áp, đôi khi bị nhạo báng. Đức Bênêđictô XVI tái khẳng định rằng con người
tự triển nở qua hành vi đức tin, vì rằng mối tương quan liên nhân vị sâu thẳm nhất
mà chúng ta có thể tự do kết nối đó là mối tương quan kết nối chúng ta với
Chúa. Nơi nào mà sự tự do này bị chèn ép, nơi đó nhân tính có nguy cơ bị suy
giảm.
5.
Đức Giáo Hoàng còn đưa ra một cách tiếp cận mới cho quyền được sống
(droit de vie), chủ đề thường được Đức Gioan Phaolô II bàn luận. Với những vấn
đề được gộp chung lại dưới nhãn hiệu đạo đức sinh học (bioéthique),
quyền được sống được bàn thảo như một vấn đề thuộc luân lý xã hội. Nơi nào
quyền được sống có vấn đề thì nơi đó cơ cấu gia đình bị lung lay. Và khi gia
đình có vấn đề thì xã hội mất đi nền tảng tự nhiên của nó. Do đó, cần phải suy
nghĩ sâu hơn về những giới hạn của quyền can thiệp của Nhà Nước, của những tổ
chức quốc tế, của các tổ chức phi chính phủ (ONG) trong những vấn đề này. Cần
phải hành động khác đi để sự sống được bảo vệ tốt hơn, để bảo vệ quan niệm chết
tự nhiên.
Những vấn đề trước kia chưa có
Thông
điệp Caritas in veritate cũng đưa ra những vấn đề mới và dành cho chúng
một sự quan tâm đặc biệt.
1.
Đức Bênêđictô nhận ra sự suy thoái của những ý thức hệ đã từng thống trị suốt
thế kỷ XX. Tuy nhiên sự suy thoái này lại nhường chỗ cho một hình thức ý thức
hệ mới cất cánh lên mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ chủ nghĩa khoa học thực chứng
(scientisme positiviste). Theo chủ nghĩa này, khoa học sẽ trả lời tất cả những
vấn đề liên quan đến con người và vận mệnh của mình, cũng vậy, nhiều người ngày
nay cho rằng những tiến bộ kỹ thuật nói chung và những kỹ thuật đặc thù cho
phép con người giải quyết những vấn đề đặt ra cho mình. Trước hết họ nghĩ đến
việc làm chủ sự sống, thuyết ưu sinh, quản lý cái chết, etc.
2.
Ta cũng nghĩ đến những tương quan mới giữa con người với thiên nhiên, nghĩa là
môi trường sống. Ta biết rằng trong những cuộc biểu tình đầu tiên, phong trào
sinh thái kêu gọi trách nhiệm của mọi người tránh việc phung phí nguyên liệu,
thải khí độc hại, diệt chủng các loài vật, etc. Hiện nay, phong trào sinh thái
biến chuyển thành hai khuynh hướng. Một đàng, ta thấy có khuynh hướng thừa nhận
các nhà nguyên cứu sinh y học (biomédecine) được quyền can thiệp trên con người
mà không quan tâm đến các hệ quả ngắn hạn hay dài hạn của những can thiệp này.
Đàng khác, khuynh hướng xem con người phải quy phục Mẹ Trái Đất (Terre-Mère),
Gaïa[1], xem con người chỉ như một sản phẩm
giữa những sản phẩm khác của tiến hoá tự nhiên.
3.
Trong những vấn đề mới mẻ cũng có vấn đề tôn trọng bản sắc văn hoá (identité
culturelle) của xã hội loài người. Nơi nhiều quốc gia, bản sắc này thường xuyên
bị đe doạ bởi những hậu quả suy đồi nào đó của việc toàn cầu hoá, trong chiều
kích chính trị và kinh tế của việc toàn cầu hoá. Sự san bằng văn hoá còn bị
thúc đẩy qua việc lạm dụng các kỹ thuật truyền thông.
4.
Thông điệp còn đề cập đến một vấn đề mà ít có nhà luân lý hay đạo đức sinh học
nào chú trọng cho đến hiện nay: vấn đề già nua dân số. Một vấn đề ảnh hưởng đến
tất cả các quốc gia Châu Âu, nhưng cũng bắt đầu ảnh hưởng đến các quốc gia khác
trên thế giới. Một phần ba các quốc gia, sự sinh sản đã xuống thấp đến mức dân
số không đổi mới được nữa.
5.
Trong các doanh nghiệp, thông điệp nhấn mạnh đến việc tìm kiếm ích lợi xã hội
phải đi kèm với việc tìm kiếm lợi nhuận. Trao đổi và lợi nhuận, cho dù hợp
pháp, cũng không đủ để đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của luân lý xã hội. Do
đó Đức Giáo Hoàng dài dòng nhấn mạnh đến logique quà tặng (logique du don)
trong tương quan xã hội.
6.
Đức Giáo Hoàng cũng lưu tâm đến các xí nghiệp nhỏ hưởng lợi nhờ các khoản tiểu
tín dụng. Qua đó ngài khuyến khích nhiều dự án được thực hiện tại các quốc gia
đang phát triển, được nhiều nhà kinh tế học có tiếng tăm khuyến khích.
7.
Ngoài những vấn đề trên đây, nhiều vấn đề khác cũng được đề cập đến trong thông
điệp. Sự nghèo khổ, thiếu hiểu biết, tham nhũng, bất công, sự xem thường hay
lỏng lẻo của luật lệ: không phải tất cả đều không tránh thoát được nếu con
người nghiêm túc nhìn nhận trách nhiệm luân lý của mình.
Chọn lựa ngôi sao
Để
con người có thể đối diện với nhiều vấn đề xã hội của ngày hôm nay, Đức
Bênêđictô đưa ra một sứ điệp đầy hy vọng. Sứ điệp này có thể được trình bày chi
tiết ở một vài điểm cơ bản, những điều khác đã được đề cập đến trong các văn
bản khác của ngài. Điều mới mẻ đó là trong Caritas in veritate Đức
Bênêđictô XVI quy về những điểm này để phát động giáo huấn xã hội của Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng kích động tính giao du xã hội tự nhiên (sociabilité
naturelle) của con người. Con người tự nhiên có khuynh hướng nhân ái đối với
đồng loại. Xã hội loài người không có tương lai nếu nguyên tắc huynh đệ bị lờ
đi hoặc hiểu sai.
Đức
Bênêđictô đã gán cho giáo huấn xã hội của Giáo Hội một quy chế và một chiều
kích mà cho đến hiện nay chưa được vén mở. Trước khi kết thúc, tôi muốn giải
thích vắn gọn điểm chính yếu này mà thông điệp đã không ít lần nhắc đến.
Ta
hãy lấy lại suy tư ở đầu bài. Nói theo Đức Bênêđictô, con người thực hiện
trọn vẹn chính mình khi mở lòng ra với Thiên Chúa. Nhưng phải sống sự cởi
mở này như thế nào?
Như
Avital Wohlman[2], giáo sư Đại Học Do Thái Jérusalem, đã nói
rằng đối với người Do Thái, con người được cứu thoát nhờ cố gắng tuân giữ Lề
Luật. Đối với Đức Giêsu, cũng như lời dạy của Thánh Phaolô trong thư Rôma và
Galát, chính Thiên Chúa làm cho chúng ta trở nên người công chính, nghĩa là
thánh nhân. Thiên Chúa công chính hoá chúng ta, thánh hoá chúng ta khi tiếp cận
chúng ta bằng ân sủng, và Thiên Chúa chờ đợi chúng ta tự do đáp ứng với sự
viếng thăm của ngài trong lịch sử chúng ta. Đó cũng chính là những gì mà Thánh
Gioan đã viết trong Lời Tựa Tin Mừng của ngài.
Dầu
là ai, Do Thái hay dân ngoại, con người chỉ được công chính hoá do Thiên Chúa.
Ngay cả người Do Thái cũng cần Thiên Chúa để thực sự trở nên công chính,
để mở ra với sự công chính hoàn toàn, mở ra với sự thánh thiện. Về phần dân
ngoại – và tất cả chúng ta đều là dân ngoại một cách nào đó – tình trạng của họ
chỉ khác với người Do Thái về một điểm cơ bản: Thiên Chúa mạc khải cho họ sau
khi tỏ lộ cho người Do Thái. Tuy nhiên, ngài hiện diện trong lương tâm họ và
một vài người đã nhận ra dấu vết của ngài trong thiên nhiên và nơi tha nhân.
Thế nhưng, dầu cho đáng khen ngợi, sự kiếm tìm của con người được phó mặc cho
sức lực của riêng mình, vì thế nhiều người thất bại. Trong khi Lề Luật được
Thiên Chúa ban cho người Do Thái, vậy mà khi đến với họ thì lề luật này chứa
đựng lòng sùng kính ngẫu tượng và tính bất luân[3], thì đối với dân ngoại mà Lề Luật và Lời Chúa
chỉ mới được trao ban sau này, họ bị phó mặc cho việc tôn sùng các yếu tố thiên
nhiên và lòng đam mê xác thịt mà lý trí của họ không thể cản ngăn được. Dân
ngoại đã có thể biết điều gì đó về Thiên Chúa nhưng điều này không đủ để ngăn
cản họ phạm tội.
Khi
con người từ chối ánh sáng soi chiếu trong tâm hồn họ, có thể nói được rằng ánh
sáng này tạo dịp cho Thiên Chúa có thể mạc khải chính mình, thì khi đó họ đã
quyết định xa cách Thiên Chúa, họ bị phó mặc cho mọi lỗi lầm đối với chính
mình, với tha nhân, với xã hội và với thiên nhiên như Thánh Phaolô đã giải
thích (Rm 1).
Trong
những thông điệp trước, các vị Giáo Hoàng đã đề cập đến giáo lý này khi đưa ra
những tác hại của việc không nhận biết Chúa, đây là giáo lý rất cơ bản nơi
Thánh Phaolô. Caritas in veritate còn đi xa hơn khi cho thấy những tác
hại của việc không nhận biết Chúa trong đời sống các xã hội. Thời nào cũng vậy,
cũng luôn có những người không cần đến Thiên Chúa. Ngày nay cũng có những xã
hội không cần đến Thiên Chúa và khi đó nó phó mình cho đủ mọi thứ cư xử đáng hổ
thẹn nhân danh sự phủ nhận Thiên Chúa có phương pháp của nó. Những dân ngoại
hôm qua và ngày nay bị phơi bày cho cơn giận của Thiên Chúa[4] vì sự vô đạo và trơ trẽn của họ, như Thánh
Phaolô đã nói, Chân lý bị bắt giữ làm tù nhân cho sự bất công và khả năng yêu
thương bị chế ngự.
Trong
Caritas in veritate, cũng như trong Hội Nghị Ratisbonne[5] và các tài liệu khác, Đức Bênêđictô muốn cứu
thoát lý trí con người và hoà giải lý trí với Lời Mặc Khải. Với Công Đồng
Vatican I (1869-1870), Đức Giáo Hoàng nhìn nhận rằng Thiên Chúa có thể được
nhận biết qua lý trí con người và phát hiện được qua công trình sáng tạo. Ngài
mời gọi con người ngày nay – Do Thái, dân ngoại, Kitô hữu – đừng lún sâu vào
những việc tôn thờ ngẫu tượng phi lý thời hiện đại: ví dụ như môi trường thế giới
không được nhìn nhận như là quà tặng của Thiên Chúa để con người hiểu biết và
hành động có trách nhiệm; hoặc ngẫu tượng mà trong đó con người bị sát hại bởi
vì không còn được nhìn nhận như là anh em hay hình ảnh của Thiên Chúa. Đối với
Đức Bênêđictô, một xã hội phá bỏ con cái mình (phá thai) là một xã hội phá bỏ
tương lai.
Đức
Bênêđictô XVI mời gọi những người Do Thái nhớ lại rằng Lề Luật được trao
ban cho Môisen chỉ để cho họ hoán cải, và trong tâm hồn được tinh luyện, họ đón
nhận Ngôi Lời hoá thành xác thịt đã được các Ngôn Sứ loan báo và Thánh Gioan
Tẩy Giả chỉ cho thấy. Đức Giáo Hoàng mời gọi dân ngoại nhìn nhận rằng
một khi ganh ghét Thiên Chúa, hoặc phớt lờ Ngài đi trong lý thuyết hay thực
hành, họ bị các ngẫu thần của tính hiện đại và thú vui xác thịt vồ lấy. Trong
thế giới đầy biến động, Đức Giáo Hoàng mời gọi Giáo Hội công bố rằng con
người đã nhận được trí năng có thể hiểu biết dấu ấn của Thiên Chúa và yêu
thương trong chân lý.
Như
vậy thông điệp của Đức Bênêđictô XVI mang đến cho mọi người – Do Thái, dân
ngoại, Kitô hữu – là một sứ điệp mang niềm hy vọng lớn lao. Mọi vấn đề xã hội
mà chúng ta gặp phải đều giải quyết được nếu con người ngừng hủy hoại lý trí
của mình. Đối với nhiều người, sự cứu rỗi cho lý trí này bắt đầu bằng việc đánh
thức ngọn lửa lập loè nơi sâu thẳm hồn mình. Với tất cả mọi người, vào một lúc
nào đó, sự cứu rỗi tuỳ thuộc vào một quyết định dứt khoát: sự chọn lựa của
Hêrôđê hay chọn lựa của các Đạo Sĩ Phương Đông. Các bạn thân mến, như các hiền
sĩ thời xưa, chúng ta có thể lựa chọn đúng và đi theo ánh sao dẫn đến Bêlem!
chuyển ngữ
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
(trích “Bản Thông Tin” Giáo phận Qui Nhơn, số
tháng 8/2010)
------------
------------
[1]
“Giả thuyết Gaïa”
do nhà sinh thái học người Anh James Lovelock đề xướng trong tác phẩm «
Gaia: A New Look at Life on Earth
», cho rằng Trái đất phải được xem như là một đại cơ thể
(macro-organisme individuel). Trái đất là « một hệ thống sinh lý năng động
(physiologique dynamique) bao gồm sinh quyển và nó duy trì cho hành tinh chúng
ta được hài hoà với sự sống từ hơn ba tỷ năm nay”. Như vậy, toàn thể sinh vật
sống trên Trái đất như một cơ thể vĩ đại (được gọi là Gaïa, theo tên một vị nữ
thần trong thần thoại Hy Lạp tượng trưng cho Trái đất), và chúng đã cùng nhau
phát triển khả năng điều chỉnh môi trường toàn cầu để duy trì sự sống. (
người dịch
)
[3]
Xem Mc 10, 2-12
[4]
Rm 1,17 tt; cũng
xem chương 3 và chương 8, 1 tt
[5]
Có thể xem bản văn
của Hội Nghị Ratisbonne (gặp gỡ với các đại diện giới khoa học tại Đại Học
Ratisbonne) ngày 12 tháng 9 năm 2006 trong
Documentation catholique,
số 2366, ngày 15 tháng 10 năm 2006, tr. 924-929.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét