Tại sao thiên thần có cánh?
Lm. Giuse Phan Tấn Thành
Hồi
đầu tháng này, phụng vụ kính lễ các thánh thiên thần bản mệnh. Các hoạ
sĩ thường vẽ các thiên thần mặc áo trắng với đôi cánh. Tại sao các thiên
thần lại mang cánh?
Chúng
ta sẽ lần lượt đi từng bước một trong việc tìm hiểu ý nghĩa đôi cánh
của các thiên thần, từ biểu tượng tự nhiên, sang nguồn gốc lịch sử và
sau cùng là ý nghĩa thần học. Trên bình diện tự nhiên, đôi cánh chim
biểu thị cho sự lanh lẹ. Chúng ta có thể thấy nhiều hãng hàng không lấy
cánh chim làm biểu tượng, và cách riêng là các phi công đều đeo huy hiệu
đôi cánh ở trên ngực, ra như chứng tỏ rằng họ có khả năng bay bổng như
chim. Đó là biểu tượng tự nhiên. Bây giờ chúng ta cần phải đi lên một
cấp nữa: tại sao lại gắn đôi cánh cho các thiên thần? Câu trả lời đơn
giản hơn cả là tại vì muốn mô tả bản tính của các vị là nhanh nhẹn.
Nhưng mà nhanh nhẹn làm cái gì? Thi đua với ai? Đây là câu hỏi mà các sử
gia đặt ra.
Có lẽ thi đua với gió. Các thiên thần vọt nhanh hơn gió, có phải như vậy không?
Có
lẽ đúng một phần, nhưng đó là xét theo ý nghĩa thần học. Các sử gia
muốn biết từ hồi nào các hoạ sĩ đã gắn đôi cánh cho các thiên thần, và
vì lý do gì? Cho đến nay, người ta cho rằng nguồn gốc của nó không phải
là Kinh thánh, nhưng là các tôn giáo ở vùng Cận đông, nơi mà xuất hiện
những vị thần linh dưới hình thù của một người hay thậm chí một con thú
có mang cánh. Đôi cánh chỉ sự lanh lẹ, như chớp như gió. Tuy nhiên, Kitô
giáo du nhập các hình ảnh đó hơi muộn. Chị nên biết là Do thái giáo
tuyệt đối cấm việc hình dung Thiên Chúa bằng hình tượng. Lúc đầu Kitô
giáo cũng tiếp nhận truyền thống đó. Dần dần, các Kitô hữu bắt đầu vẽ
hình của đức Kitô, Thiên Chúa nhập thể, với những biểu tượng của vị mục
tử. Rồi càng ngày nền mỹ thuật Kitô giáo phát triển với những bức chân
dung của Đức Kitô, đức Maria, các thánh. Việc hoạ chân dung của các vị
không khó, bởi vì họ cũng là con người như chúng ta. Chỉ cần thêm những
nét biểu tượng các nhân đức trổi vượt nhờ cách tô điểm các mầu. Nhưng
làm thế nào mà vẽ các thiên thần, vốn thuộc vào loài thiêng liêng, vô
hình vô tượng? Các hoạ sĩ chỉ còn cách là dùng các khuôn mẫu đã có từ
các tôn giáo hay các nền văn hóa đương thời. Theo các sử gia, khuôn mẫu
gây ảnh hưởng trực tiếp đến lối biểu tượng các thiên thần là nữ thần
chiến thắng Victoria của dân Rôma, được kính ngay tại trụ sở của Thượng
viện đế quốc. Vị thần này mang áo dài trắng, với đôi cánh chim, và cầm
triều thiên.
Như vậy, các Kitô hữu muốn nói lên rằng các thiên thần là những người chiến thắng ma quỷ, phải không?
Có
lẽ đó không phải là ý nghĩa nguyên thủy. Lúc đầu, ý nghĩa của đôi cánh
chỉ muốn nói lên sự nhanh nhẹn. Sự nhanh nhẹn ở đây không nên hiểu theo
nghĩa vật lý (chạy đua xem ai đạt vận tốc cao hơn), nhưng theo nghĩa
tinh thần: mau mắn trong việc thi hành ý định của Thiên Chúa. Chị nên
nhớ rằng trong nguyên gốc tiếng Do thái và Hy-lạp của Kinh thánh, các
thiên thần là những sứ giả của Thiên Chúa. Vì thế, sự mau lẹ được hiểu
là họ chấp hành sứ mạng ngay tức khắc, không chần chừ, như chúng ta đọc
thấy trong thánh vịnh 103, câu 20: “Chúc tụng Chúa đi, hỡi muôn vì thiên
sứ, bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện Lời Người, luôn sẵn sàng phụng
lệnh”.
Như thế cũng có thể ví các thiên thần bay lẹ như gió chứ gì?
Sự
so sánh này khá tự nhiên. Tuy vậy, trong Kinh thánh Cựu ước, khi so
sánh các thiên sứ với gió, thì có lẽ người ta không muốn nói tới sự
nhanh nhẹn, cho bằng sự nhẹ nhàng. Trong tư tưởng cổ điển, gió và không
khí tượng trưng cho thế giới thiêng liêng, đối lại với thế giới chất
thể. Sở dĩ các thiên sứ nhanh nhẹn chu toàn sứ mạng một phần cũng tại
các ngài không bị cản trở bởi vật chất. Thiết tưởng đây là điều mà vịnh
gia muốn nói ở thánh vịnh 104, câu 3-4: “Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt
bay cánh gió. Sứ giả ngài: làn gío bốn phương, nô bộc Chúa, lửa hồng
muôn ngọn”. Còn Phúc âm nhất lãm, khi tả quang cảnh của ngày chung thẩm
thì nói đến việc các thiên sứ được sai đi để quy tụ muôn dân từ “bốn
gió”, nghĩa là 4 phương trời (Mc 13,26-27; Mt 24,30-31).
Lúc
nãy cha nói rằng khi du nhập biểu tượng của nữ thần Chiến thắng của
Rôma, các Kitô hữu chỉ chú trọng đến ý nghĩa nhanh nhẹn của đôi cánh,
chứ không lấy ý nghĩa chiến thắng. Nhưng mà có nhiều bức tranh vẫn vẽ
thiên thần Micae chiến thắng quỷ dữ. Vậy là cũng có tư tưởng chiến thắng
nữa đấy chứ?
Tôi
chỉ ghi nhận ý kiến của vài nhà sử học mà thôi. Theo họ, khi du nhập
biểu tượng thần chiến thắng, lúc đầu sự chú ý được dành cho đôi cánh,
tượng trưng cho sự nhanh nhẹn nhẹ nhàng; về sau mới thêm tư tưởng chiến
thắng. Ý nghĩa này được áp dụng cách riêng cho thiên sứ Micae, lãnh đạo
các thiên sứ trong cuộc giao tranh với Satan, như chúng ta có thể đọc
thấy ở sách Khải huyền chương 12, câu 7-9. Tuy nhiên, ý nghĩa chiến
thắng không phải chỉ dành cho thiên sứ Micae, mà còn cho các Kitô hữu
nói chung. Nhiều hoạ sĩ vẽ thiên thần hộ tống linh hồn của người lành về
thiên quốc, tay cầm triều thiên đội lên đầu kẻ đã thắng tội lỗi và các
chước cám dỗ.
Nếu con không lầm, thiên sứ Micae là đàn ông. Thế sao các bức tranh lại vẽ thiên sứ dưới hình thiếu nữ?
Nên
biết là phái tính nam nữ chỉ áp dụng cho các loài có thể xác, chứ không
áp dụng cho loài thiêng liêng. Vì vậy mà không thể nói được các thiên
thần thuộc phái nam hay phái nữ. Bên Âu châu, việc hình dung phái tính
chịu ảnh hưởng không nhỏ của từ ngữ, giống đực hay giống cái. Thí dụ như
Hội thánh được ví như là mẹ, và hiền thê, bởi vì từ Ecclesia là giống
cái trong tiếng Hy-lạp và La-tinh. Vì thế không lạ gì mà “tự do, công
lý, chiến thắng” được hình dung như là nữ thần, bởi vì trong tiếng
La-tinh và tiếng Pháp, các từ đó ở giống cái (Libertas, Justitia,
Victoria). Còn từ “thiên thần” (angelus) là giống đực cho nên được hình
dung là nam nhi là phải rồi. Trong Kinh thánh, ta thấy có những đoạn mô
tả các thiên thần xuất hiện dưới hình của nam nhi, thí dụ như ở sách
Sáng thế (chương 18, khi hiện ra với ông Abraham), sách Tôbia, về thiên
thần Raphael, và trong Phúc âm nhất lãm khi nói về các thiên sứ hiện ra
dưới hình một thanh niên, để báo tin Chúa Phục sinh cho các bà đi ra
viếng mồ (Mc 16,5). Dựa theo các bản văn Kinh thánh, trong các thế kỷ
đầu tiên, các bức hoạ vẽ các thiên thần theo hình nam nhi, đặc biệt là
các thiên thần Micael, Raphael, Gabriel. Mãi tới thời cận đại người ta
mới vẽ các thiên thần dưới hình thiếu nữ.
Tại sao vậy?
Có
lẽ vì muốn tăng thêm phần duyên dáng xinh đẹp cho các ngài. Vả chăng,
tuy các bức tranh cổ thời hình dung các thiên thần dưới hình dạng nam
nhi, nhưng ta thấy các ngài cũng để tóc quăn và dài, má hồng môi thắm.
Thật khó mà phân biệt được nam hay là nữ giới.
Và có lẽ y phục của các ngài cũng khó mà phân biệt được thuộc phái nào, phải không?
Thực
ra trong xã hội cổ thời, y phục giữa nam giới và nữ giới không có gì
khác biệt cho lắm. Trước đây, tại Việt Nam, các ông cũng để tóc dài búi
tó, và mặc áo dài như các bà. Bên Tây phương, cũng tương tự như vậy. Vào
thời cổ, các ông mặc áo thụng, mà vết tích còn duy trì nơi y phục của
các linh mục và tu sĩ. Điều đáng chúng ta lưu ý là các hoạ sĩ đã quan
niệm thế nào về hình dáng mà màu sắc dành cho y phục của các thiên thần.
Cách chung, các vị mặc y phục màu trắng. Đây là lối trình bày dựa theo
Kinh thánh, thí dụ khi mô tả các thiên sứ báo tin Chúa Kitô phục sinh
(Mt 28,3): màu trắng không những chỉ tượng trưng cho sự thanh sạch nhưng
còn tượng trưng cho sự sáng ngời của thiên giới. Ngoài căn bản lấy từ
Kinh thánh, các hoạ sĩ cổ thời còn muốn khóac cho các thiên thần nhiều ý
nghĩa khác. Các thiên thần mặc áo trắng toát như các thẩm phán và nghị
sĩ của Rôma, bởi vì các ngài thuộc hàng chức sắc của triều đình thiên
quốc. Về sau, các thiên thần cũng được khóac phẩm phục tư tế, để nói lên
vai trò của các thiên thần là tiến dâng hy lễ chúc tụng trước toà Chúa.
Nhưng mà cũng có những bức hoạ vẽ y phục của thiên thần với đủ màu xanh đỏ đấy chứ?
Đúng
vậy. Dĩ nhiên mỗi hoạ sĩ có những quan điểm riêng của mình khi nhuộm
màu áo của các thiên thần. Tuy nhiên, theo các sử gia, các hoạ sĩ bắt
đầu tô màu cho các thiên thần từ khi xuất bản tác phẩm “Phẩm trật thiên
quốc” (De coelesti Hierarchia) của ông Đionixiô, vào khoảng thế kỷ V.
Theo ông, trên thiên quốc, các thiên thần cũng được phân chia thành các
đẳng trật (ông ta nói tới 9 đẳng) cao thấp khác biệt. Vì thế các hoạ sĩ
muốn tô màu cho y phục của các thiên thần, nhằm phân biệt các đẳng cấp
ấy. Tưởng cũng nên biết là vào thời cổ, người ta rất nể ông Điônixiô, vì
tưởng lầm rằng ông ta là đồ đệ của thánh Phaolô, được sách Tông đồ công
vụ nhắc đến ở chương 17 câu 34. Tác phẩm của ông được coi như mang
nguồn gốc từ các thánh tông đồ. Nhưng mà, như đã nói, khoa sử học hiện
đại cho rằng tác giả sống vào thế kỷ V, chứ không phải là đồ đệ của
thánh Phaolô. Vì thế ông được đặt tên là Điônixiô giả (Pseudo
Dionysius). Các hoạ sĩ bên Đông phương thường cho thiên thần Sêraphim
mặc áo màu đỏ, còn thiên thần Kêrubim mặc áo màu xanh dương; số cánh
cũng tăng lên 4 và 6. Sang thời Trung cổ, các thiên thần được gán cho
nhiều chức vụ khác nhau, vì thế mà y phục cũng trở nên đa dạng: có vị lo
việc coi sóc nhân gian, có vị lo chầu trước toà Chúa; có vị lo chiến
đấu chống ma qủy, có vị phụ tá trong việc phán xét. Từ đó ta thấy có
những thiên thần cầm cân, cầm giáo, hay là gảy đàn múa hát. Và bên cạnh
các thiên thần tráng niên còn có các thiên thần tí hon, mình trần chỉ có
thêm đôi cánh.
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Phan Tấn Thành
Nguồn tin: www.daminhvn.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét